Bà Naomi Kitahara, Trưởng đại diện Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam |
unfpa |
Trao đổi với Thanh Niên, bà Kitahara cho biết việc Việt Nam năm 2007 thông qua Luật Phòng, chống bạo lực gia đình cho thấy cam kết mạnh mẽ và những nỗ lực ấn tượng của Chính phủ Việt Nam nhằm chấm dứt bạo lực gia đình. Theo bà, luật đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho sự phát triển cũng như thực thi nhiều chính sách và biện pháp can thiệp trong hai thập kỷ qua.
Tuy nhiên, dựa trên kết quả nghiên cứu toàn quốc lần 2 về tình trạng bạo lực đối với phụ nữ tại Việt Nam được công bố năm 2019, do UNFPA và chính phủ Úc hỗ trợ, ít có thay đổi trong tình trạng bạo lực đối với phụ nữ so với nghiên cứu đầu tiên vào năm 2010.
Tiếp tục những tức tưởi trong câm lặng
Nghiên cứu lần hai phát hiện cứ mỗi 3 phụ nữ Việt Nam thì có 2 người từng chịu ít nhất một hình thức bạo lực trong đời, bao gồm bạo lực thể chất, kinh tế, tinh thần, tình dục và bị kiểm soát hành vi.
Và 90,4% nạn nhân, tức cứ 10 người lại có 9 người, chưa từng tìm kiếm bất kỳ sự giúp đỡ nào từ chính quyền và một nửa trong số họ chưa từng nói với ai về tình trạng bạo lực.
Bên cạnh đó, báo cáo ước tính bạo lực đối với phụ nữ làm tổn hại 1,81% GDP của cả nước.
Trước tình trạng bạo lực gia đình vẫn đang tiềm ẩn và là một vấn đề đáng báo động trong xã hội, điều cấp thiết phải điều chỉnh luật liên quan để phù hợp tình hình mới.
Bà Kitahara cho hay UNFPA đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (MOCST) trong suốt quá trình sửa đổi luật. Theo đó, công tác đánh giá tập trung vào lĩnh vực thực thi pháp luật và sự tham gia của các bên liên quan, cũng như tính nhất quán của luật so với các điều ước quốc tế và so với các luật, chính sách liên quan khác ở Việt Nam.
Cách tiếp cận lấy nạn nhân là trung tâm
Từ kết quả đánh giá, UNFPA khuyến nghị sửa đổi Luật Phòng, chống bạo lực gia đình dựa trên quyền con người và nhấn mạnh cách tiếp cận là lấy người bị bạo lực làm trung tâm. Đồng thời, khuyến nghị cũng bổ sung các hình thức bạo lực khác cần được ghi nhận và xử lý, chẳng hạn như các trường hợp xảy ra bên ngoài bối cảnh gia đình.
Theo khuyến nghị, hòa giải có thể là giải pháp lựa chọn, nhưng không nhất thiết áp dụng, vì nhiều trường hợp cho thấy không có hiệu quả trong việc ngăn chặn bạo lực leo thang. Khi thấy gia tăng dấu hiệu bạo lực, cách tốt nhất là người bị bạo lực cần phải được bảo vệ ngay lập tức với lệnh cấm tiếp xúc đối với người gây bạo lực. Địa phương cũng cần hỗ trợ nạn nhân có được nơi nương náu trong thời gian cấm tiếp xúc.
Bên cạnh đó, dự thảo luật đề xuất cung cấp các dịch vụ toàn diện và thiết yếu bao gồm chăm sóc y tế, tư vấn, bảo vệ của lực lượng công an, dịch vụ xã hội và tư pháp, và thay đổi các chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức hướng tới thay đổi thực sự hành vi của người dân.
Để học hỏi kinh nghiệm quốc tế, bà Kitahara cho biết đã tổ chức các chuyến thăm quan tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế tại Úc và Hàn Quốc. Và UNFPA cũng hỗ trợ xây dựng làm video clip có sự tham gia của các đại sứ Úc, Canada, Tây Ban Nha, Thụy Điển, phái đoàn EU tại Việt Nam…, theo đó chia sẻ những kinh nghiệm riêng của từng nước, và khuyến khích, ủng hộ quá trình sửa đổi luật.
“Giờ đây, dự thảo luật sửa đổi đã hoàn tất và dự kiến sẽ được thông qua tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV sắp tới. Chúng tôi vui mừng khi thấy kết quả của quá trình này, đặc biệt trong việc áp dụng cơ chế lấy nạn nhân làm trung tâm với những yếu tố nhạy cảm về giới trong dự thảo sửa đổi mới nhất”, bà Kitahara cho biết.
Sau khi dự thảo luật được thông qua, trưởng đại diện UNFPA cam kết sẽ tiếp tục đồng hành và ủng hộ MOCST soạn thảo nghị định thi hành luật mới, cũng như các nghị quyết liên quan khác.
Trong những năm tới đây, UNFPA sẽ tiếp tục hỗ trợ Chính phủ Việt Nam, các cơ quan ban ngành và những tổ chức có liên quan nhằm đảm bảo thực thi luật một cách hiệu quả, bao gồm hỗ trợ tài chính và kỹ thuật.
Bình luận (0)