Khởi nghiệp từ cây chè

24/06/2024 08:33 GMT+7

Làng nghề chè thôn Cảy (xã Minh Thanh) vốn là một trong những vựa chè nổi tiếng của H.Sơn Dương (Tuyên Quang). Bén rễ hàng trăm năm, cây chè gắn bó với biết bao thế hệ người dân nơi đây.

Cây "thoát nghèo"

Men theo con đường bê tông uốn lượn giữa những đồi chè xanh mát, chúng tôi đến Làng nghề chè thôn Cảy. Ấn tượng đầu tiên không chỉ bởi không gian trong lành, thư thái, khác hẳn với không khí ngột ngạt chốn đô thị mà còn bởi hương chè ngào ngạt xâm lấn không gian. Đi trong ngát hương chè, chúng tôi đến nhà Tổ trưởng Tổ hợp tác chè thôn Cảy Phạm Văn Minh.

Khởi nghiệp từ cây chè- Ảnh 1.

Ông Phạm Văn Minh (thứ 3 từ trái qua) giới thiệu quy trình chăm sóc chè VietGAP

THANH TÙNG

Pha ấm trà nóng mời khách, ông Minh say sưa kể về cây chè. Những năm 1970, thôn Cảy chỉ là vùng rừng già rậm rạp với vài chục nóc nhà. Cuộc sống người dân nơi đây khó khăn trăm bề. Không bằng lòng với việc chỉ lo kiếm bữa qua ngày, người dân thôn Cảy tìm và lựa chọn một loài cây phù hợp để phát triển kinh tế. Thế nhưng, ở đây chủ yếu là đồi núi, phát triển cây lúa sẽ khó khăn cho việc làm thủy lợi, nên bà con quyết định chọn cây chè để thoát nghèo.

Thời điểm đó, diện tích chè của thôn chủ yếu là chè trung du, năng suất, chất lượng thấp và nhu cầu của thị trường cũng không cao. Giá trị sản phẩm chè rất thấp. Trong những lần chở chè mang bán các nơi, ông Minh thấy ai cũng thích chè Thanh Trà, có người trở thành khách "ruột" đến bây giờ. Những lúc như vậy, ông lại trăn trở: chè quê hương ngon vậy, sao vẫn rẻ? Suy nghĩ ấy cứ quanh quẩn trong đầu ông suốt một thời gian dài, rằng làm sao để nâng cao giá trị sản phẩm chè Thanh Trà?

Trong một lần sang thăm bạn ở Thái Nguyên, thấy người ta làm chè sạch đem lại giá trị cao gấp 2 - 3 lần so với chè truyền thống, ông đã xin phương thức và lân la học hỏi kỹ thuật trồng, chế biến chè VietGAP. Sau một thời gian dài học nghề, ông trở về với quyết tâm sẽ nâng tầm cây chè ở chính quê hương mình.

Vừa nhâm nhi ly trà xanh, ông Minh vừa nhớ lại những ngày đầu, tới lứa hái mà vườn chè rộng nhưng chỉ lưa thưa vài búp, những búp chè lại không xanh đen như những vườn chè được chăm sóc bằng phân hóa học, không vươn dài ngồng như dùng phân bón lá, hay trong vườn chè vẫn có khu bị sâu chích hút...

"Đã có lúc tôi rơi vào bế tắc, khủng hoảng cả về tài chính lẫn tinh thần, nhiều lúc chán nản. Ấy nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến bỏ cuộc", ông Minh tâm sự.

Sau nhiều cố gắng, lứa chè đặc sản đầu tiên của gia đình ông Minh ra lò, nhưng khi người dân đến hỏi mua thì ông lại nhất định không bán. Thay vào đó, ông đóng thành từng túi, rồi hễ có đoàn khách du lịch nào đến Khu du lịch Tân Trào, hay đến làm việc tại xã ông lại mang chè của mình sản xuất được đến tặng. Ông Minh chỉ xin họ một lời nhận xét sau khi uống sản phẩm, và nếu có nhu cầu dùng tiếp thì liên hệ theo số điện thoại để ông giao sản phẩm đến tận tay khách hàng.

Quả nhiên, một thời gian sau đó, rất nhiều người được ông Minh tặng chè Thanh Trà đã chủ động liên lạc để đặt hàng. Những vị khách từng sử dụng chè của ông, ai cũng tấm tắc khen về thứ trà "tròn vị" mang đủ hương, sắc, vị, thần.

Hương chè bay xa

Năm 2017, ông Phạm Văn Minh thành lập Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP với 7 thành viên, trồng 7 ha chè đặc sản. Quy trình sản xuất chè theo VietGAP đã được tổ lựa chọn để phát triển vùng chè gắn với xây dựng thương hiệu chè Thanh Trà. Từ việc cải tạo giống, khâu chăm sóc, thu hái, chế biến… đều phải tuân thủ theo quy trình nghiêm ngặt.

Riêng công đoạn hái chè búp tươi cũng phải theo đúng kỹ thuật, chỉ thu hái vào buổi chiều khi búp chè đã khô sương, các búp chưa đến tuổi hái không bị tận thu nên thời gian các lứa hái được rút ngắn, mang lại hiệu quả cao.

Đặc biệt, muốn du khách nhớ đến chè Thanh Trà thì phải có sự khác biệt, chính là tạo được hương vị đặc trưng "gây thương nhớ cho người thưởng chè". Từ đam mê uống chè, ông Minh đã tìm ra bí kíp để có sản phẩm chè hội tụ đủ phẩm chất đỉnh cao: nước sánh vàng như mật, hương thơm tinh khiết và vị ngọt hậu.

Từ việc chuyển đổi trồng và sản xuất chè đặc sản, giá chè bán ra thị trường của tổ hợp tác tăng lên nhiều so với các năm trước. Và một điều đặc biệt, vị thơm, ngọt của chè Thanh Trà không chỉ được lan rộng trên khắp thị trường trong tỉnh mà còn vươn ra các tỉnh như Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hải Phòng... Với năng suất đạt gần 2 tấn chè khô/ha/năm, giá bán từ 220.000 - 300.000 đồng/kg, người dân thu lãi hơn 100 triệu đồng/năm.

Qua bao thăng trầm, chè Thanh Trà của làng nghề chè thôn Cảy đã được nhiều người tiêu dùng biết đến. Cuối năm 2021, sản phẩm chè Thanh Trà tham gia đánh giá sản phẩm OCOP và đạt chuẩn 3 sao. Đây chính là thành quả của những cố gắng tạo ra sản phẩm nông nghiệp an toàn của tổ hợp tác nói riêng và người dân làng nghề chè nói chung. Đây cũng là tiền đề để sản phẩm chè Thanh Trà được phân phối trong các hệ thống siêu thị, cửa hàng nông sản sạch trong cả nước.

Rời thôn Cảy, trong tôi còn vương vấn mãi vị ngọt chén trà và câu chuyện khởi nghiệp từ cây chè của lão nông Phạm Văn Minh. Trở thành triệu phú trồng chè nơi vùng cao nhiều khó khăn, ông Minh đã minh chứng ý chí dám nghĩ, dám làm; lập nghiệp, làm giàu chính đáng bằng nỗ lực và niềm đam mê, góp phần đưa thương hiệu chè Thanh Trà vươn xa.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.