Tết Nguyên đán hay còn gọi là Tết Cả diễn ra vào tháng Giêng, thời điểm nông nhàn, mọi người rảnh rỗi, nghỉ ngơi, đi chơi. Theo truyền thống, người dân Việt xưa chủ yếu làm nông, mang tính thời vụ nên vào những lúc nhàn hạ thường có tâm lý ăn chơi bù đắp những ngày đầu tắt mặt tối.
Nguồn gốc tết Nguyên Đán
Tết là do đọc trại từ chữ Tiết, nguyên là đầu tiên, đán là buổi sáng sớm. Tết Nguyên đán được dịch là khoảng thời gian đầu của một năm mới. Dần dần được gọi vắn tắt là Tết.
Trong “Việt Nam phong tục toàn biên”, tác giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng, đúng nghĩa thì Nguyên đán chỉ là một ngày, tức là ngày mùng một tháng Giêng. Qua nhiều năm tháng, người ta tổ chức trong vòng 3 ngày: Ba mươi tháng Chạp, mùng một, mùng hai tháng Giêng.
Tiến sĩ Trần Long (giảng viên khoa Văn hóa học, ĐH KHXH&NV, Đại học Quốc gia TP.HCM) cũng cho biết tiết là một hiện tượng khí hậu thay đổi sau 15 ngày quả đất tự quay quanh nó và đi một đoạn trên quỹ đạo biểu kiến quanh mặt trời.
|
Tết không chỉ là dịp để mọi người trang hoàng, dọn dẹp lại nhà cửa mà còn có ý nghĩa tâm linh thiêng liêng, hướng về cội nguồn.
Theo tín ngưỡng dân gian, người nông dân còn cho rằng Tết là dịp để tưởng nhớ các vị thần linh có liên quan đến nông nghiệp như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước…
Dù là Tết lớn nhất trong năm, nhưng tùy theo mỗi vùng, miền của đất nước hoặc theo những quan niệm về tôn giáo khác nhau mà mỗi địa phương có các phong tục, tập quán khác nhau.
Vì sao người Việt xưa thích Tết?
Ngày nay, nhiều người phải đi xa mới có môi trường làm việc thích hợp. Tuy nhiên, dù ở đâu, họ vẫn mong muốn được quay trở về quê cùng đón Tết với gia đình.
TS Trần Long cho biết, người Việt xưa thường sinh sống trong phạm vi làng, xã, quanh năm gắn với nông nghiệp lúa nước nên ngày Tết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Không chỉ là thời gian nghỉ ngơi sau một mùa vụ mà còn là dịp để mọi người được làm và thưởng thức những món ngon. Ngày Tết, nhà nào cũng có “thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” cùng với "cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
|
Tết về, bàn thờ nhà nào cũng được trang hoàng mâm ngũ quả ở vị trí trang trọng. Cả gia đình cùng nhau thắp nén nhang rồi đi thăm mộ của tổ tiên khiến tình cảm gia đình thêm gắn kết.
Ngày trước, không có bắn pháo hoa và các hoạt động ngoài trời trong đêm giao thừa, nên vào thời khắc thiêng liêng này, các thành viên trong gia đình thường quây quần trong nhà và cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất.
Tháng Giêng là tháng ăn chơi
Theo TS Trần Long, quan niệm của ông cha ta ngày xưa là “ăn Tết”. Ngày trước, cuộc sống khó khăn, nên những món ngon chỉ dành cho ngày Tết. Có câu: "Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà”, dù khó khăn thế nào thì cũng phải sắm được mâm cỗ để rước ông bà về ăn Tết cùng con cháu.
Cũng theo TS Trần Long, khi gặt xong, người Việt xưa thường dọn ruộng, đốt rạ để có đất trống, bằng phẳng làm chỗ vui chơi, tổ chức lễ hội. Nhưng vì địa hình khác nhau nên thời điểm gặt xong của mỗi vùng cũng khác nhau. Vì vậy, khoảng thời gian kết thúc vụ mùa trong toàn khu vực Bắc Bộ kéo dài hơn cả tháng.
|
TS Long nhận định, ngày nay, với sự phát triển của xã hội, quan niệm về Tết đã thay đổi, trong đó nổi bật nhất là sự thay đổi từ “ăn Tết” sang “nghỉ Tết”, “chơi Tết”. Điều kiện sống được nâng lên, các món ngon vật lạ người ta có thể ăn quanh năm chứ không chỉ riêng gì ngày Tết, do vậy quan niệm “ăn Tết” trong dịp Tết đang dần dần được chuyển sang hướng nghỉ ngơi, du lịch...
Dù vậy, cứ tới tết Nguyên Đán, người người lại thấy nôn nao, mong được trở về đoàn tụ bên gia đình. Và có nghỉ dưỡng, du lu lịch... ở đâu thì cũng phải giữ “thủ tục” “đốt ba nén nhang” vái lạy ông bà rồi đi đâu hẳn đi.
Có thể thấy, dù xã hội có phát triển như thế nào thì phong tục Tết cổ truyền vẫn là nét văn hóa truyền thống đã ăn sâu vào tâm thức của từng người Việt.
Bình luận (0)