>> Gã si tình nặng nghiệp cầm ca
|
Năm 1950, tôi mới trở lại gặp anh Năm Châu, lúc đó gánh hát Con Tằm đã đổi bảng hiệu là Đoàn Việt kịch Năm Châu. Lúc này, đoàn có thêm các nghệ sĩ (NS): Văn Lang, Hoàng Kinh, Ngọc Đán, Thừa Vĩnh, Văn Lâu, Ba Thâu, Sáu Huề… Cải lương Thật và Đẹp
Ngày tôi về, Đoàn Việt kịch Năm Châu bắt đầu diễn các tuồng: Dân chúng trước pháp luật, Tuyết băng và bạo lực, Cách Lan Phương Tử, Gió ngược chiều… Anh Năm Châu lấy tích tuồng từ các sách truyện của Pháp, Anh để chuyển thể cải lương và bắt đầu khai sáng trào lưu cải lương Thật và Đẹp.
Một lần, thấy tôi mân mê cuốn tuồng của anh, lật tìm những bài bản để gạch nhịp rồi lẩm bẩm ca, Năm Châu hỏi: “Tía nó có thích viết tuồng không?”. Thấy tôi gật đầu, anh nói: “Sao tía nó không thử?”. “Tui có thích nhưng nghĩ mình không đủ sức”. “Chưa thử sao biết không đủ sức. Tía nó rành bài bản, có khiếu văn chương, bước đời ít nhiều đã trải qua sóng gió... Viết đi, tui sẽ góp ý” - anh khích lệ.
Chính anh Năm Châu đã cho tôi niềm tin vào khả năng để tự tin thử sức. Tôi đi theo chủ trương của anh - sân khấu cải lương phải thật và đẹp. Điểm tựa của tôi là đọc và biết chắt lọc những nét đẹp từ tiểu thuyết văn chương. Tôi say mê đọc những tác phẩm của các tác giả nổi tiếng và tập hành văn theo sự tinh túy mà mình chắt lọc được. Từ kho tàng này, tôi đem vào kịch bản, đưa vào bài ca vọng cổ, cố gắng nâng chất văn học lên để những tinh hoa đượm thêm hồn quê, rứt tim nhỏ máu mà đi vào lòng công chúng mộ điệu.
Kịch bản đầu tay ở giai đoạn chuyên nghiệp mà tôi đã viết là Nát cánh hoa rừng. NS Kim Cúc lúc đó đóng vai chánh, anh Năm Châu đọc rồi cho hát liền, không sửa một chữ, còn vỗ vai tôi khen: “Tía nó viết được đó, tiếp đi!”.
“Tía nó” ra riêng
Tôi quyết định đổi nghệ danh Viễn Châu từ ngày khai trương vở Nát cánh hoa rừng. Tôi nghĩ mình mang thân viễn xứ, lìa quê cha, đất mẹ đi bôn ba khắp nơi, chữ “Viễn” để nói lên nỗi lòng của một kẻ vì hoàn cảnh, thời cuộc mà phải xa nhà, ghép với chữ Châu - Đôn Châu, nơi chôn nhau cắt rốn - để làm nghệ danh sáng tác. Hồi đó ở Sài Gòn, người trong nghề luôn nhắc đến bộ ba danh cầm: Năm Cơ, Văn Vỹ và Bảy Bá nhưng chỉ mỗi mình tôi rẽ sang nghề sáng tác.
Sau Nát cánh hoa rừng, tôi có động lực để viết thêm nhiều tuồng trên sân khấu Đoàn Việt kịch Năm Châu: Con Tấm - con Cám, Đường ra biên ải, Bến đò ma, Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng… NS Kim Cúc khoái cách hành văn trong bài vọng cổ của tôi, bảo chỉ đọc qua một lần là thuộc làu, rằng dường như tôi “đi trong gan, trong ruột của người ca”. Tôi thì nghĩ khác, chính vì cái tên Viễn Châu đã khiến tôi phải tự trọng với ngòi bút của mình.
Năm 1955, tôi đã có được tên tuổi, được anh em NS tín nhiệm, uy tín ngày càng khẳng định. Các hãng dĩa và bầu đoàn tìm tới mời tôi về ký công tra (hợp đồng) làm tác giả thường trực. Thấy tôi còn phân vân, anh Năm Châu vỗ vai: “Tía nó ra riêng đi, đã tới lúc phải tự đứng mà tung hoành cái tài của mình”. Tôi rất mừng và cảm động.
Tạo cú đột phá cho Thanh Nga
Chia tay Đoàn Việt kịch Năm Châu, tôi về cộng tác với Đoàn Kim Thanh - Út Trà Ôn. Tôi đã sáng tác kịch bản Tình vương hoa thắm khai trương đoàn này, có các đào, kép tham gia: Út Trà Ôn, Kim Chưởng, Thanh Tao, Thúy Nga. Sau đó, tôi sung sức viết hàng loạt vở tuồng lấy chuyện xưa nói chuyện nay: Viên ngọc rắn thần, Bèo dạt mây trôi, Tình anh lính chiến, Hoa rụng giữa thiền môn, Dưới bóng Phật đài…
Tiếng lành đồn xa, lại có thêm sự cộng hưởng từ lời giới thiệu uy tín của anh Năm Châu và chị Kim Cúc, tôi được “bà bầu của các ông bà bầu” Nguyễn Thị Thơ - thân mẫu của cố NSƯT Thanh Nga và danh hài Bảo Quốc - mời về viết tuồng cho Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga. Bầu Thơ là người trọng dụng soạn giả, chủ trương trả lương tháng để anh em yên tâm. Lúc này, tôi đã viết các tuồng mà số lượng vé bán được xem là kỷ lục: Người yêu của hoàng thượng, Yêu nữ thần, Thiên thần trên thiết mã, Người nữ cứu thương, Tình nở Đào hoa thôn, Kiếp hoa tàn…
Khán giả đến xem Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga thường mang theo về những câu ca mà tôi viết. Nghĩ cũng vui! Các đào, kép chánh của Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga thời đó gồm: Thành Được, Út Bạch Lan, Thanh Nga cùng dàn bao hát vai phụ toàn là những NS thượng thặng: Ba Vân, Hoàng Giang, Kim Giác, Trường Xuân, Văn Ngà, Ba Xây…
Khi tôi về đoàn, để tạo cú đột phá cho Thanh Nga sau khi cô đã đoạt HCV giải Thanh Tâm năm 1958, bà bầu Thơ đã đặt hàng tôi phải viết các kịch bản lăng xê con gái bà. Vì thế, tôi đã sáng tác Hoa mộc lan, Chuyện tình Hàn Mạc Tử…
Sống mãi những danh hiệu Trong giới nghệ thuật cầm ca, nghệ danh được khán giả đặt tức là lộc của Tổ ẩn ý ban tặng cho đứa con cần cù, chăm chỉ, được bà con thương. Không ít danh hiệu mà khán giả tặng cho NS sống mãi cho tới ngày nay: Đệ nhất danh ca Út Trà Ôn, Hoàng đế dĩa nhựa Tấn Tài, Ông hoàng cải lương Thành Được, Hoàng tử sân khấu Minh Phụng, Đệ nhất đào thương Thanh Hương, Sầu nữ Út Bạch Lan, Kiều nữ Bích Sơn, Kỳ nữ Kim Cương, Vua vọng cổ hài Văn Hường, Vua xàng xê Minh Chí, Vua Tao Đàn Thanh Hải, Giọng ca lụa trải nhung căng Ngọc Giàu, Giọng ca thánh thót chuông ngân Lệ Thủy, Nữ quái kiệt Kim Ngọc, Khôi nguyên Vọng cổ Minh Vương, Cải lương Chi bảo Bạch Tuyết… mà tôi sẽ lần lượt đề cập trong hồi ký của mình. |
Kỳ tới: Út Trà Ôn và Tình anh bán chiếu
Khi “đệ nhất danh ca” Út Trà Ôn đầu quân về hãng dĩa Hồng Hoa, chủ hãng kêu tôi tới bảo: “Anh Mười ký hợp đồng độc quyền với mình, vậy anh mau viết bài ca để thu, phải làm cho thị trường náo động”. Thế là Tình anh bán chiếu ra đời…
Theo Người Lao Động
>> Cao Thái Sơn nói về nghi án lừa tình, lừa tiền
>> Trả cải lương về với cội nguồn
>> Xiếc Việt của người Mỹ
>> Sân khấu mất một nụ cười…
>> Vang bóng một thời: Kim Hương - nàng Tiểu Loan "Bên cầu dệt lụa
>> NSND Phùng Há - 99 năm nhẹ gánh đường trần
>> Hữu Châu đóng cải lương làm từ thiện
>> Món quà ý nghĩa
>> Thái hậu Dương Vân Nga
Bình luận (0)