Ông bà Trịnh Văn Bô - "bà đỡ" tài chính cho chính quyền Cách mạng
Nhà tư sản cách mạng Trịnh Văn Bô (1914 - 1988) và người vợ là bà Hoàng Thị Minh Hồ (1914 - 2017) đều được trao Huân chương Độc lập hạng nhất; được truy tặng danh hiệu "Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu" cùng 3 doanh nhân nổi tiếng khác là Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà - những doanh nhân Việt yêu nước "đời đầu". Tên của ông được đặt cho một con đường to đẹp tại thủ đô Hà Nội.
Tìm về lịch sử, thương gia Trịnh Văn Bô là con út trong gia đình có 3 anh chị em, quê ở làng Bãi, Cao Viên, Thanh Oai, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Gia đình ông có truyền thống kinh doanh, thân sinh là cụ Trịnh Phúc Lợi - một doanh nhân Việt Nam thành đạt đầu thế kỷ 20, chủ hiệu buôn Phúc Lợi. Ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà nho và cũng là thương gia giàu có đất Hà Nội xưa. Hiệu buôn vải sợi Phúc Lợi do 2 vợ chồng ông Bô quản lý, đặt tại 48 Hàng Ngang. Tầng hai của hiệu buôn này từng là nơi trú của nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng cấp cao khi từ chiến khu về Hà Nội trước năm 1945. Đặc biệt, chính tại nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi thảo và hoàn thành bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đến giữa năm 1940, ông Bô được xem là một trong những người giàu có bậc nhất đất Hà thành, sở hữu một nhà máy dệt và kinh doanh cả ngành bất động sản. Là thương nhân giàu có, nhưng gia đình ông kinh doanh dựa trên triết lý "Buôn bán 10 đồng thì giữ lại 7, còn lại giúp đỡ người nghèo và làm việc phúc đức". Mùa thu năm 1945, Chính phủ lâm thời mới thành lập gặp nhiều khó khăn về tài chính, Kho bạc Trung ương lúc đó đối mặt với khoản nợ ngắn hạn phải thanh toán lên đến 564 triệu đồng, trong khi ngân khố chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng Đông Dương, mà gần một nửa là tiền rách chờ thu đổi. Thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra sáng kiến thành lập Quỹ Độc lập và "Tuần lễ vàng" nhằm thu nhận tài chính và hiện vật nhân dân quyên góp cho Chính phủ. Ngay lập tức, gia đình ông Trịnh Văn Bô đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ. Không những thế, với uy tín của mình, ông vận động giới công thương và các tầng lớp nhân dân quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương và 370 kg vàng ủng hộ Chính phủ.
Nói đến ông Trịnh Văn Bô, không thể không nhắc đến bà Hoàng Thị Minh Hồ với câu nói giản dị nhưng đậm chất triết lý được ghi trong sử sách: "Vợ chồng tôi có 4 bàn tay, 2 khối óc, đóng góp hết rồi chúng tôi sẽ làm ra. Độc lập dân tộc không thể để mất, vì mất rồi bao giờ thế hệ sau mới lấy lại được".
Năm 2014, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Trịnh Văn Bô, mừng đại thọ bà Hoàng Thị Minh Hồ, Bộ Tài chính có biên soạn cuốn Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính Việt Nam, nhằm vinh danh những công lao, đóng góp của gia đình với Đảng, Nhà nước và ngành tài chính Việt Nam.
Mua nhà in của Pháp, hiến tặng Chính phủ in tiền
Trước Cách mạng Tháng Tám, ông Ngô Tử Hạ (1882 - 1973) là người bảo trợ, giúp đỡ các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo. Ông quê ở Ninh Bình, lớn lên theo học trong nhà dòng và rất giỏi tiếng Pháp. Tư liệu lịch sử ghi lại từ năm 17 tuổi, ông Ngô Tử Hạ rời quê nghèo lên Hà Nội lập nghiệp, làm thợ cho nhà in IDEO của Pháp. Còn rất trẻ nhưng ông đã nuôi mộng lập nhà in với khát vọng sẽ là nơi in ấn và phát hành những tri thức của nhân loại. Lớn lao hơn, ông ấp ủ được phụng sự cuộc cách mạng của nước nhà bằng việc âm thầm hỗ trợ in ấn sách báo, tài liệu, truyền đơn ủng hộ Việt Minh vào những năm trước 1945.
Rồi ông xây nhà in mang tên Ngô Tử Hạ ngay gần khu vực nhà thờ Hà Nội (số 24 Lý Quốc Sư) và bản thân ông nằm trong top 300 nhà tư sản có máu mặt ở xứ Đông Dương. Điều đặc biệt thú vị và đáng tự hào hơn cả là những tờ giấy bạc đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà người dân quen gọi là "đồng bạc cụ Hồ" đã được in tại nhà in mang tên Ngô Tử Hạ. "Đồng bạc cụ Hồ" được in và phát hành kịp thời không chỉ đáp ứng nhu cầu chi dùng của người dân mà ý nghĩa quan trọng là khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc. Niềm tự hào đó, trọng trách đó được Chính phủ tin tưởng giao cho nhà in Ngô Tử Hạ thực hiện.
Sau này, khi nhu cầu in ấn tiền của Chính phủ mới ngày càng lớn, một nhà tư sản yêu nước khác là ông Đỗ Đình Thiện (1904 - 1972) vào năm 1946 đã bỏ tiền ra mua lại nhà in của Pháp và hiến tặng cho Chính phủ để lập nhà in tiền đặt tại đồn điền rộng lớn của gia đình ông ở Hòa Bình. Ngoài ra, tại buổi đấu giá bức tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (họa sĩ Nguyễn Sáng vẽ) để gây Quỹ Độc lập năm 1945, ông Thiện đã bỏ ra một triệu đồng Đông Dương (khoảng gần 2.000 lượng vàng) mua bức tranh và tặng ngay cho Ủy ban Kháng chiến hành chính TP.Hà Nội.
Đáng trân trọng hơn, trong 9 năm kháng Pháp (1945 - 1954), nhà tư sản yêu nước Đỗ Đình Thiện không chọn sống tại Hà Nội đầy đủ tiện nghi mà bỏ hết cơ ngơi, đưa gia đình lên Việt Bắc để đồng hành cùng chính quyền còn non trẻ, đồng hành cùng Cách mạng trong 9 năm trường kỳ kháng chiến. Đồn điền Chi Nê ở Hòa Bình được ông bà giao cho Ban Kinh tài của Đảng quản lý, đặc biệt, ông đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam). Sau khi kháng chiến thắng lợi, gia đình ông mới quay lại thủ đô Hà Nội, về sống tại nhà riêng ở số 76 Nguyễn Du (Hà Nội).
"Ông vua tàu thủy" Bạch Thái Bưởi
Những năm tháng đầu thế kỷ 20, khi nói về những tỉ phú Việt đầu tiên, không ai không nhớ đến "ông vua tàu thủy Việt" Bạch Thái Bưởi (1874 - 1932) - một trong "tứ đại gia" không chỉ tại Việt Nam và là toàn vùng Đông Dương thời bấy giờ.
Ông Bạch Thái Bưởi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, là người họ Đỗ ở Thanh Trì, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Cha mất sớm, ông phụ mẹ mưu sinh từ nhỏ. Một nhà phú hào họ Bạch thấy ông thông minh, lanh lợi, nên nhận làm con nuôi và từ đó, ông lấy họ Bạch. Vào ở nhà người giàu, ông được nuôi cho ăn học, am tường tiếng ta lẫn tiếng Tây và sớm bộc lộ tài năng trời phú là làm kinh doanh. Theo tư liệu lịch sử, nhờ thông minh, ông được Phủ Thống sứ Bắc kỳ cử sang Pháp dự hội chợ Bordeaux. Lần đầu sang trời Tây, quan sát, tìm hiểu cách làm ăn kinh doanh của người Pháp, dù chuyến đi ngắn ngày, nhưng ngay từ khi bước chân lên tàu rời Pháp để về lại quê hương, trong tâm trí của chàng trai 20 tuổi Bạch Thái Bưởi đã nung nấu nhiều ý tưởng làm giàu mãnh liệt. Dường như, nhìn đâu cũng thấy cơ hội làm giàu, nếu dám và quyết liệt với ý tưởng kinh doanh.
Tại thời điểm đó, người Pháp bắt đầu cuộc khai thác thuộc địa, mở mang đường sá, xây dựng cầu cống tại Việt Nam, ông nhanh chóng tìm được cơ hội để trở thành đối tác cung cấp nguyên liệu cho dự án xây dựng tuyến đường sắt lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ. Khởi đầu là cung cấp vật liệu để người Pháp xây cây cầu dài 3.500 m nối Hà Nội với Gia Lâm (cầu Long Biên ngày nay). Năm 1902, cầu được khánh thành cũng là lúc ông đã có số vốn đáng kể để có thể bung ra làm lớn hơn. Có tiền, ông bỏ ra mua hãng cầm đồ ở Nam Định, mở hiệu cơm Tây ở Thanh Hóa, đại lý rượu ở Thái Bình và cùng lúc làm cai thầu thuế cho các chợ trải dài từ miền Bắc vào đến miền Trung.
Kinh doanh đường dài, không thể không nghĩ đến phương tiện đi lại. Vận tải đường thủy nội địa, mảng kinh doanh vốn chủ yếu do các thương nhân người Hoa chiếm lĩnh đã được nhà kinh doanh họ Bạch để mắt. Năm 1909, ông lập Công ty hàng hải Bạch Thái Bưởi - khởi đầu cho danh hiệu "Vua tàu thủy Việt Nam" hay "Chúa sông Bắc kỳ" sau này. Công ty ban đầu thuê 3 chiếc tàu Phi Phụng, Phi Long và Bái Tử Long để kinh doanh vận tải đường thủy trên hai tuyến Nam Định - Bến Thủy (Nghệ An) và Nam Định - Hà Nội.
Từ chỗ đi thuê tàu, sau 10 năm khai thác 2 tuyến tàu thủy nội địa này, công ty của ông đã sở hữu gần 30 tàu lớn bé và sà lan chạy hầu hết các tuyến sông nước miền Bắc, chạy trên 17 tuyến hàng hải trong và ngoài nước, chạy đến Hồng Kông, Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc đại lục, Singapore... Đáng nói, trong khối tài sản tàu thủy mà ông Bạch Thái Bưởi sở hữu ngày đó, có 6 chiếc của hãng tàu Pháp bị phá sản, được ông mua lại đặt những tên gọi mang đậm dấu ấn lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam, gồm Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi.
Ngày 7.9.1919, Công ty hàng hải Bạch Thái Bưởi đã làm rạng danh ngành hàng hải Việt Nam khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn do người Việt thiết kế, đóng toàn bộ. Tàu dài đến 42 m, trọng tải 600 tấn, động cơ 400 mã lực, cập cảng Sài Gòn hơn 1 năm sau đó, ngày 17.9.1920. Sự kiện này đã làm rúng động giới kinh doanh Nam kỳ, họ đã đúc bảng đồng với dòng chữ đầy tự hào: "Tặng tàu Bình Chuẩn, chiếc tàu Việt Nam đầu tiên tại cảng Sài Gòn". Từ đó, danh xưng "Vua tàu thủy Việt Nam" ra đời.
Làm lớn, nghĩ lớn, giao tiếp với nhiều thương nhân người nước ngoài, nhưng tâm trí nhà tư sản Bạch Thái Bưởi luôn hướng về nguồn cội. Niềm tự tôn dân tộc trong ông rất lớn thể hiện trong cách chọn đặt tên cho các con tàu. Chuyện kể có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân tại một hội nghị kinh tế lý tài, ông Bạch Thái Bưởi đã bị Toàn quyền René Robin đe dọa: "Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi". Không chút nao núng, ông đáp lại: "Nước này còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin".
Đương thời và các thế hệ đời sau luôn coi ông là nhà tư sản dân tộc, một doanh nhân giàu ý chí tự cường, một thương gia lớn và đặc biệt có tinh thần tự tôn dân tộc cao, là tấm gương lớn để các thế hệ doanh nhân sau này học hỏi. Ông là một trong những nhà tư sản yêu nước, và cũng là người đặt những viên gạch đầu tiên cho ngành hàng hải nước nhà.
"Ông tổ" ngành sơn Việt Nam - Nguyễn Sơn Hà
Một trong những doanh nhân hàng đầu Việt Nam thời Pháp thuộc, ông Nguyễn Sơn Hà (1894 - 1980) được đánh giá là người khai mở nghề sản xuất sơn dầu ở Việt Nam, hay có thể gọi là "ông tổ" ngành sơn Việt. Ông sinh ra tại Quốc Oai, Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) trong một gia đình có 7 anh chị em. Cha mất sớm, ông phải bỏ học đi làm phụ bàn giấy cho một hãng buôn của người Pháp, sau chuyển sang làm cho hãng sơn dầu Sauvage Cottu ở Hải Phòng. Xuất thân từ thợ học việc, nhưng sáng dạ, ham học hỏi, ông bắt đầu tìm hiểu cách người Pháp làm sơn thế nào. Thế là ban ngày làm việc cho chủ, tối ông tìm thầy học tiếng Pháp, dần dà đã đọc hết tủ sách của ông chủ hãng sơn.
Khi nắm được cơ bản công nghệ làm sơn và đã tích lũy chút vốn liếng, năm 1917, ông quyết định nghỉ làm ra riêng mở tiệm bán sơn.
Năm 1920, tròn 26 tuổi, ông Hà đã trở thành chủ hãng sơn lớn Gecko, đặt tại thành phố cảng Hải Phòng, rộng 7.000 m2, cung cấp cho khách hàng từ Hà Nội vào đến Sài Gòn, vượt biên giới bán sang Campuchia, Thái Lan, Lào… và được tiêu thụ nhanh đến mức làm không đủ bán. Không chấp nhận người An Nam lại có thể sản xuất được sơn tốt, bán giá thấp hơn Pháp, người Pháp tìm mọi cách chèn ép. Thế nhưng, với bản lĩnh của một nhà kinh doanh, ông vượt qua nhiều khó khăn để giữ vững sự hưng thịnh của nền công nghiệp bản địa còn non trẻ.
Tuy nhiên, sự nghiệp kinh doanh của Nguyễn Sơn Hà rẽ sang hướng khác khi ông gặp nhà yêu nước Phan Bội Châu - người đang bị chính quyền Pháp quản thúc tại Huế - năm 1939. Cuộc gặp gỡ đã tác động sâu sắc đến nhân sinh quan của nhà tư sản Nguyễn Sơn Hà. Về lại Hải Phòng, ông ra tranh cử hội đồng thành phố và tham gia nhiều hội, ban… yêu nước. Đấu tranh với người Pháp, Nhật để đòi mở kho tấm cám cứu đói; đứng ra lập trường học để nuôi dạy trẻ mồ côi… Trong "Tuần lễ vàng", ông và gia đình đã hiến toàn bộ nữ trang với khoảng 10,5 kg cho Cách mạng. Rồi người con cả hy sinh trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, ông Nguyễn Sơn Hà đã quyết định đi theo con đường cách mạng giải phóng dân tộc, bỏ lại toàn bộ tài sản từ nhà xưởng, đồn điền, tiền của…
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông Nguyễn Sơn Hà trúng cử đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hải Phòng. Với tư duy nhà kinh doanh, ông đưa ra nhiều ý tưởng hỗ trợ Chính phủ mới trong làm vải nhựa cách điện, sản xuất giấy than, mực in, vải che mưa, chế tạo lương khô, thuốc ho… Sau kháng chiến chống Pháp, ông trở về Hà Nội và tiếp tục trúng cử vào Quốc hội Việt Nam 4 khóa liên tục và năm 1980, ông mất tại Hải Phòng.
***
Trí tuệ, quyết liệt, táo bạo và có tinh thần dân tộc cao, những thương gia Việt vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 không chỉ có sự nghiệp phát triển rực rỡ, cống hiến, sống trọn vẹn với Tổ quốc mà thậm chí còn nhận được sự ngưỡng mộ của chính người Pháp, những người đang xâm lược, cai trị Việt Nam thời đó.
Bình luận (0)