Vừa quay phim vừa khóc
Ông Đặng Phước Ngọc kể lại chuyện vào hiện trường vụ máy bay rơi, cuối tháng 3.1988
|
Cuối tháng 3.1988, ông Đặng Phước Ngọc là phóng viên (PV) quay phim của Đài Phát thanh - Truyền hình (PTTH) Lâm Đồng. Hôm ấy đang ở nhà thì người của đài gọi ông đến cơ quan lấy máy quay M7 và lên xe quân sự đi “công tác bí mật”. Đến Ban chỉ huy quân sự (BCHQS) TX.Bảo Lộc, ông mới được thông báo “vào quay phim ghi hình
hiện trường máy bay An-26 rơi”.
Đồng đội chia buồn với vợ con thiếu tá Nguyễn Công Toàn (nạn nhân đi trên chuyến bay An-26 số hiệu 285), tại lễ truy điệu do Học viện lục quân Đà Lạt tổ chức
|
Chiều hôm đó, ông Ngọc được bộ đội dẫn vào rừng, nghỉ đêm giữa đường mòn. Gần trưa hôm sau lên đến đỉnh núi Lẹp (Lộc Châu, Bảo Lộc, Lâm Đồng), ông Ngọc phải trượt xuống khe núi nơi máy bay rơi. Đập vào mắt ông là hình ảnh phần đầu và thân máy bay nằm trong khe núi, phần đuôi bị hất văng lên đỉnh phiến đá to. Sau khi quay cận cảnh máy bay An-26 số hiệu 285, ông đến từng khu vực ghi lại toàn bộ hiện trường ngổn ngang những mảnh vỡ, thi thể và cả vật dụng cá nhân. “Trong hang sâu dưới tảng đá to có rất nhiều thi thể nhưng tôi không xuống được vì máy quay nặng”, ông Đăng Phước Ngọc rành mạch và nhớ: “Phải ra ngay trong đêm để nộp băng”.
Trung tướng Nguyễn Thế Bôn, Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (đầu tiên bìa phải) dẫn đầu đoàn tìm kiếm cứu nạn vào hiện trường vụ máy bay rơi, tháng 4.1988
|
Buổi sáng ra đến trụ sở BCHQS TX.Bảo Lộc, ông Ngọc và người đồng bào dân tộc dẫn đường lại được đưa lên
máy bay trực thăng để chỉ hiện trường quan sát và ghi hình từ trên cao. Xong việc, trực thăng hạ xuống TX.Bảo Lộc, đã thấy ông Phạm Tuân (lúc đó là thiếu tướng, Chủ nhiệm chính trị Quân chủng Không quân - QCKQ) cùng đợi sẵn.
Ông
Phạm Tuân bảo: “Anh theo tôi lên máy bay ra Hà Nội để giao tư liệu” nhưng ông Ngọc lắc đầu: “Tôi được đài cử đi nên chỉ giao băng cho đài”. Những cuốn băng do ông Đặng Phước Ngọc quay hiện trường vụ tai nạn máy bay An-26 số hiệu 285, ngay lập tức được lãnh đạo Đài PTTH Lâm Đồng giao cho BCHQS tỉnh và chuyển ra Bộ Quốc phòng. “Người đồng bào dẫn đường cho chúng tôi tên là K´Dẻo. Anh ấy là người đi trong nhóm thanh niên làng Đạ Nghịch phát hiện máy bay rơi và về báo chính quyền. Trưa hôm ấy, K´Dẻo còn chỉ cho tôi quay từ trên xuống dưới cái hang có rất nhiều thi thể nằm dưới”, ông Ngọc hồi tưởng và lắc đầu: “Đã từng đi bộ đội đánh Fulro và lúc ấy đã 36 tuổi, nhưng chưa bao giờ thấy thảm khốc vậy. Tôi vừa bấm máy quay vừa khóc”.
Đoàn tìm kiếm cứu nạn của BTTM và QCKQ đầu tháng 4.1988. Hàng đứng có các sĩ quan cao cấp như trung tướng Nguyễn Thế Bôn (thứ 7 từ phải qua), thiếu tướng Phạm Ngọc Lan (thứ 4 từ phải qua), thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị (thứ 6 từ phải qua) và Chuẩn đô đốc Hoàng Hữu Thái, lúc ấy là Phó tư lệnh hải quân (thứ 10 từ phải qua). Đại úy K´Rim (người đầu tiên nhận tin báo và tiếp cận hiện trường máy bay rơi)ngồi hàng đầu, thứ 3 từ trái sang
|
Đục số hiệu máy bay làm chứng
Trung tá Nguyễn Hồng Thái, cán bộ phòng Chính trị Lữ đoàn không quân 918 đến giờ vẫn nhớ quãng thời gian đầu tháng 4.1988, khi đó mới 24 tuổi là thượng úy, trợ lý bảo vệ an ninh của trung đoàn 918, cùng tham gia đoàn tìm kiếm cứu nạn của Bộ tổng tham mưu (BTTM) Quân đội nhân dân Việt Nam vào tận hiện trường máy bay An-26 số hiệu 285 gặp nạn.
Đoàn khoảng 40 người, do trung tướng Nguyễn Thế Bôn, Phó tổng tham mưu trưởng dẫn đầu, chia làm 2 nhóm: Các sĩ quan cao cấp của BTTM, QCKQ đi trực thăng từ Hà Nội vào TX.Bảo Lộc; nhóm đi ô tô từ TP.HCM lên, gồm đại diện các cơ quan của Bộ Quốc phòng phía Nam và một số cán bộ, nhân viên kỹ thuật trung đoàn 918. “Xuất phát từ TP.HCM sáng ngày 1.4.1988, tôi nhớ rất rõ bởi hôm ấy là ngày giỗ bố tôi”, trung tá Thái chắc chắn và hồi tưởng: “Xe chạy đến Định Quán (Đồng Nai) thì hỏng nên anh Thái phải vẫy các loại xe nhờ cho mọi người đi trước, sau đó mới lên Bảo Lộc. Hồi ấy, Fulro vẫn còn hoạt động mạnh ở Lâm Đồng, nên đèo Bảo Lộc bị cấm lưu thông từ 22 giờ tới sáng hôm sau, chỉ có xe Công an, quân đội có vũ trang được qua. Do khoác khẩu AK kèm 4 băng đạn nên chiếc xe chở anh Thái được ưu tiên cho qua và 3 giờ sáng 2.4, anh mới tới BCHQS TX.Bảo Lộc”.
Máy bay Mi-8 tham gia cứu nạn
|
Ăn sáng xong, cả đoàn lên mấy chiếc xe hành quân vào chân núi và cuốc bộ dưới sự bảo vệ chặt chẽ của bộ đội địa phương. Lưng đeo ba lô nước uống, cơm nắm, trứng luộc, tay lăm lăm súng AK, thượng úy Thái đưa GS-TS Vũ Ngọc Thụ, Viện trưởng Pháp Y quân đội vào đến hiện trường đúng buổi trưa, cùng đoàn công tác. “Từ trên vách đá đã ngửi mùi tử khí nồng nặc dưới khe núi. Chúng tôi đu dây mây cả mấy chục mét xuống được hiện trường và chứng kiến cảnh hài cốt đang phân hủy nằm ngổn ngang cùng với các mảnh vỡ máy bay. Xem xét hiện trường cho thấy sau khi rơi, máy bay không bị cháy và đây cũng là lý do khiến các máy bay tìm kiếm không phát hiện ra. Khám nghiệm hiện trường xong, cả đoàn từ trung tướng cho đến chiến sĩ, chia nhau đi nhặt các phần hài cốt. Tôi cùng mấy chiến sĩ leo lên tảng đá to máy bay đâm vào để nhặt từng lọn tóc con gái còn dính trên đó”, trung tá Thái thuật lại rồi trầm giọng: “Tôi và các anh Thân Văn Thay (trung đội trưởng thiết bị hàng không), Nguyễn Văn Tùng (trung đội trưởng vô tuyến điện tử), Lê Văn Tiên (trung đội trưởng máy bay động cơ) được giao đục số hiệu 285 ở đuôi đứng máy bay, mang về báo cáo Bộ Quốc phòng để không bị nói làm giả hiện trường và dập tan dư luận đồn thổi máy bay trốn ra nước ngoài. Việc thu dọn hài cốt, xử lý hiện trường sau đó được giao cho Đại đội 3, Tiểu đoàn 5, Lữ đoàn 144 và cơ quan quân sự địa phương”. “Mấy ngày liền thu dọn dưới trời nắng nóng, mùi tử khí nồng nặc, sương mù, muỗi vắt… nhưng ai cũng cố gắng vì đó là đồng đội mình”, trung tá Thái nói.
Tiểu đội trinh sát của BCHQS TX. Bảo Lộc (Lâm Đồng) tham gia bảo vệ hiện trường và các cán bộ cấp cao làm nhiệm vụ cứu nạn
|
Đại tá Nguyễn Duy Lê nhớ lại ngày 2.4.1988, ông là Phó trung đoàn trưởng - tham mưu trưởng 918 đi cùng đoàn của BTTM vào hiện trường máy bay rơi: “Hôm ấy có thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị (khi đó là Phó tư lệnh - tham mưu trưởng QCKQ) dẫn đầu đoàn. Khám nghiệm xong, cả anh Nhị, anh Lan (phi công Phạm Ngọc Lan, khi đó là đại tá - Cục trưởng Huấn luyện của QCKQ) thấy tôi đang cùng anh em thả cáp hàng của An-26 xuống hang sâu dưới tảng đá để đưa thi thể lên, cũng vào làm cùng. Khi rút ra khỏi hiện trường, đi được một đoạn, anh Nhị bảo tôi: “Cậu cùng anh em quay lại đục thêm cái số hiệu 285 ở thân máy bay mang về, để trưng bày cho người dân biết là không có chuyện phi công chúng ta lái máy bay trốn sang nước ngoài” và trầm ngâm: “Miếng số hiệu ấy to bằng cái bàn, chúng tôi đục mãi mới xong và vất vả lắm mới khiêng được ra bìa rừng...”. (Còn tiếp)
Vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng này phản ánh sự xem nhẹ công tác bảo đảm an toàn bay và đấu tranh phòng ngừa tai nạn bay, chưa thực sự coi trọng việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho phi công, nhân viên bay và các thành phần đảm bảo; chất lượng giáo dục chính trị trong công tác bảo đảm bay còn hạn chế…. Đây là bài học sâu sắc cho lãnh đạo chỉ huy trung đoàn trong tổ chức các hoạt động bay.
Nguồn: Lịch sử lữ đoàn không quân 918, thời kỳ 1975-2015
|
Sau vụ tai nạn bay 16.91987, tôi được Tư lệnh quân chủng Không quân bổ nhiệm làm quyền trung đoàn trưởng 918. Lúc này mình mới có 37 tuổi, chỉ có kinh nghiệm bay - chiến đấu chứ làm gì có có kinh nghiệm lãnh đạo. Đã thế lại còn tính cách của người Quảng Nam nói thẳng nói thật, không rủ rỉ khuyên nhủ được, nên quãng thời gian này, giờ mới thấy là vất vả nhất trong đời binh nghiệp. Hồi ấy máy bay nhiều, nhiệm vụ liên tục. Từ chi viện chiến trường Campuchia, bảo vệ Trường Sa sau sự kiện 14.3.1988 cho đến chở tiền mới in sau khi đổi… tất cả đều giao hết cho đơn vị đang choáng váng sau tai nạn máy bay thảm khốc. Đã thế, gia đình của nạn nhân suốt ngày đến… đòi người.
Đại tá Nguyễn Duy Lê, Trung đoàn trưởng 918 (từ 9.1988 - 9.1991)
|
Bình luận (0)