Thơ tết trong nhà trường còn… nghèo nàn!

26/01/2020 11:08 GMT+7

Nhìn vào chương trình phổ thông hiện nay, chúng ta thấy thơ buồn quá nhiều mà thơ vui, thơ viết về mùa xuân, thơ tết thì quá ít.

Thơ tết thời...gian khó

Thời học phổ thông, mỗi lần tết đến, bạn bè tôi thường thích nhẩm mấy câu thơ này trong bài thơ Xuân của Chế Lan Viên, xem như là thơ tết
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Tuổi hồn nhiên, vô tư mà cảm được nỗi buồn thê thiết của một hồn thơ mới “kinh dị” - Chế Lan Viên trong tập Điêu tàn như thế là có cơ sở. Những năm cuối thập kỷ tám mươi của thế kỷ trước, kinh tế đất nước khó khăn, vật chất thiếu thốn. Chúng tôi vừa học vừa làm, nhiều gia đình phải “chạy gạo đong từng bữa” để đón tết… Vì thế đối với thế hệ chúng tôi, tết mang “cảm thức” buồn nhiều hơn vui. Bây giờ “xã hội đã lên đường” (thơ Huy Cận). Tuổi trẻ hiện nay không còn “nỗi buồn thế sự” như chúng tôi nữa. Và bài thơ Xuân nói trên của Chế Lan Viên cũng không còn thấy trong chương trình ngữ văn phổ thông, ít người còn nhớ đến.

Học sinh vẽ minh họa bài thơ Cáo tật thị chúng

Trần Ngọc Tuấn

Cần bổ sung thơ tết, thơ xuân của cuộc sống mới

Dĩ nhiên, không có thơ buồn thì phải có thơ vui, học trò phải được biết và học nhiều hơn về thơ tết để qua đó có thêm tình yêu mùa xuân, thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu đời. Ấy vậy mà, nhìn vào chương trình phổ thông hiện nay, chúng ta thấy thơ buồn quá nhiều mà thơ vui, thơ viết về mùa xuân, về tết thì quá ít.
Những bài thơ như Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Vội vàng (Xuân Diệu), Bức tranh quê (Anh Thơ), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử),… chỉ là một khía cạnh góc nhìn, chưa thât toàn diện. Ai quan tâm hơn thì lần tìm về thơ cổ. Nhưng thơ trung đại thường nói và viết hay về mùa thu hơn mùa xuân. Đâu đó là vài chấm phá của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
(Truyện Kiều)
Hay tâm sự sâu kín riêng tư của Nguyễn Trãi qua hình tượng cây chuối: “Tự bén hơi xuân tốt lại thêm…”(Ba tiêu). Thơ xuân của Nguyễn Khuyến, Tú Xương cũng không thiếu nhưng dư vị buồn chứ không vui. Những bài như Chợ Đồng (“Dăm ba ngày nữa tin xuân tới/ Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng” - Nguyễn Khuyến), Mùng hai tết viếng cô Ký (“Hàng phố khóc bằng câu đối đỏ/ Ông chồng thương đến cái xe tay” - Tú Xương)… nhuốm vị chua chát của buổi giao thời xã hội phong kiến nửa thực dân. Các văn bản này trước đây có đưa vào chương trình phổ thông , hiện nay đã cắt, giảm tải.
Điểm qua mấy ý trên để thấy rằng thơ tết, thơ mùa xuân là một khiếm khuyết rất lớn trong chương trình phổ thông hiện nay. Rất hiếm để có được bài thơ (bài kệ) có sức sống vững bền như Cáo tật thị chúng:“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”của thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096), đời Lý trong chương trình lớp 10 phổ thông . Sự khiếm khuyết này chương trình giáo dục phổ thông mới môn văn chưa bù đắp được.
Không chỉ về thơ, thiết nghĩ, cần thêm nhiều bài học cho học sinh phổ thông về văn hóa, về lễ hội, về các nét đẹp truyền thống của tết cổ truyền dân tộc. Trong giai đoạn đổi mới văn học sau năm 1975, nhất là sau 1986, đâu đó vẫn thấy có một số tác giả bù lấp vào mảng khuyết về đề tài này như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng… nhưng chưa nhiều.
Chủ trương của chúng ta bấy lâu nay là xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc. Về tính “tiên tiến, hiện đại” thì chúng ta đang cố gắng để đạt được. Song, xin đừng xem nhẹ tính đậm đà bản sắc dân tộc của chủ trương trên.
 
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.