Thời ấy, vua Tự Đức rất mê săn bắn ở rừng Thuận Trực cách kinh thành Huế 15 km. Một hôm, gặp lúc nước lụt, thuyền ngự về chậm, bà Từ Dụ sinh lo bèn sai Nguyễn Tri Phương cùng một số quan quân đi tìm.
Đến tối, nhà vua về tới cung điện. Ông chạy ngay tới Gia Thọ cung để xin chịu phạt, thấy bà Từ Dụ ngồi quay mặt vào màn, biết là mẹ rất giận nên lẳng lặng đi lấy một cây roi mây để cạnh bà và nằm dài xuống xin chịu đòn. Hồi lâu sau, bà mới quay mặt lại, lấy tay hất cây roi ra rồi nói:
- Thôi, ta tha cho. Đi chơi để quan quân tìm kiếm cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta.
Câu chuyện cho thấy chẳng những bà rất nghiêm cẩn khi cư xử với con mà còn có lòng nhân hậu với người dưới nữa. Trong suốt mấy mươi năm, chương trình làm việc của vua Tự Đức rất chặt chẽ: ngày chẵn vào chầu cung, ngày lẻ thì ngự triều.
Trong những ngày chầu cung, Từ Dụ Thái hậu đem những công đức của liệt thánh tiên triều kể lại cho vua nghe, phân tích những điều hay lẽ phải trong lịch sử Trung Hoa cũng như của các triều đại ở nước ta. Nhà vua lắng nghe và ghi những lời mẹ dạy vào một quyển riêng, sau hợp thành tập Từ huấn lục.
Đối với hàng hoàng thân quốc thích, bà Từ Dụ nêu gương cần kiệm triệt để. Ai dâng sô sa, châu ngọc (thường của các nước láng giềng) thì chỉ thị giao về kho, phần mình chỉ ăn mặc như người thường, vẫn hay bảo các con cháu rằng một sợi tơ, một hạt thóc là mồ hôi nước mắt của dân nên không được phép lãng phí.
Các công chúa và người trong hoàng tộc ai thiếu thốn thì bà trợ cấp, nhưng vẫn thường dạy rằng: “Các ngài bổng lộc vẫn nhiều, nếu biết lường số chi cho đúng số thu thì việc gì mà thiếu, chỉ lo xa hoa, lãng phí, đến đỗi chi tiêu không đủ, phải vay mượn người ta, nợ lời cứ chất thêm lên, thì dầu ta ban cấp bao nhiêu cũng không thể đủ” (Báo Phụ nữ tân văn số 23 năm 1930).
Còn đối với họ ngoại nhà vua, tức thân tộc ruột thịt của bà, bà còn nghiêm khắc hơn nữa. Có người trong họ bà không ham học hành nhưng muốn vào cung làm thị vệ, bà nghe được, bảo rằng: “Mày là người thích lý, ta đã cấp tiền, cấp bạc, dựng cửa, dựng nhà cho là muốn cho mày học hành nên người, ai ngờ mày biếng nhác hư thân, lại ỷ thế cự thần, muốn làm chức này, chức nọ. Làm thị vệ có chức trách thị vệ, không có lẽ ngồi không mà ăn lương, cậy thân mà việt phận, như vậy chẳng hóa trái lẽ lắm sao!”(Phụ nữ tân văn 23/1930 – Đại Nam liệt truyện – sđd, trang 52).
Theo lệ thời Nguyễn, vua và Hoàng Thái hậu đến những mức tuổi 40, 50, 60, 70... thì tổ chức lễ khánh tiết hay thánh thọ. Những dịp này, không thoái thác được, bà chỉ cho tổ chức hết sức đơn giản. Năm 1868, nhân sắp đến kỳ lục tuần đại khánh tiết của bà, vua Tự Đức cùng quần thần muốn tấn tôn huy hiệu, bà đã dụ: "Giặc Bắc chưa dẹp yên, đất Nam kỳ chưa lấy lại... Trong thời kỳ khốn đốn, vua nên thức khuya dậy sớm, tối nên nếm mật nằm gai, làm sao cho thiên hạ thái bình, thì ta mới được vui lòng hả dạ, còn những cái hư danh vô ích, ta không dám đương”. (Phụ nữ tân văn 23/1930)
Sau ngày vua Tự Đức mất, đáng tiếc bà đã không còn đủ uy lực để ngăn chặn những rối loạn liên tục diễn ra tại triều đình Huế. Năm 1887, vua Đồng Khánh tấn tôn bà huy hiệu Từ Dụ Bác Huệ Thái Hoàng Thái hậu; đến năm Thành Thái nguyên niên (1889), bà lại được tấn tôn làm Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái - Thái Hoàng Thái hậu.
Sau những thất bại của phong trào Cần vương do vua Hàm Nghi khởi xướng, bà sống âm thầm trong lãnh cung cho đến lúc mất vào ngày mồng 5 tháng 4 âm lịch - 1902, thọ 93 tuổi và được dâng tôn thụy là Nghi Thiên Tán Thành Từ Dụ Bác Huệ Trai Túc Tuệ Đạt Thọ Đức Nhân Công Chương Hoàng hậu (các sách sử về sau gọi tắt là Nghi Thiên Chương Hoàng hậu).
Thế kỷ 19, bên cạnh những thối nát, bất lực của xã hội phong kiến, Từ Dụ Thái hậu với những đức tính muôn thuở của người phụ nữ Việt Nam: hiếu thảo với cha mẹ, tận tụy với chồng, nghiêm cẩn trong giáo dục con cái, thẳng thắn trong xử sự với họ hàng và nêu gương cần kiệm của bản thân..., đến nay vẫn còn nguyên giá trị một tấm gương sáng để mọi người soi chung.
Bình luận (0)