Các chuyên gia của Trường Y Harvard (Mỹ) đã phân tích dữ liệu của hơn 100.000 ca mang thai tại Đan Mạch từ năm 1996-2002.
Từ nhóm này, các nhà nghiên cứu xem xét những phụ nữ mang thai lần đầu và chỉ mang thai một con. Họ loại trừ những phụ nữ có sức khỏe trước đó hoặc tình trạng mang thai có thể làm tăng rủi ro sinh non.
Ê kíp chuyên gia sau cùng xem xét 376 phụ nữ sinh con trước thời điểm thai được 34 tuần tuổi và một nhóm gồm 348 phụ nữ không sinh non để so sánh. Tất cả phụ nữ được lấy máu xét nghiệm trong giai đoạn đầu tiên và thứ hai của thai kỳ.
Những mẫu xét nghiệm này nhằm đo số lượng a xít béo mạch dài, thường được biết đến với tên gọi EPA và DHA, trong máu của những phụ nữ.
EPA và DHA thường được tìm thấy chủ yếu trong cá và những loại thực phẩm khác, đặc biệt cá ở vùng thời tiết lạnh như cá hồi, cá thu, cá ngừ, cá herring và cá mòi.
Ngoài ra, chúng cũng hiện diện trong nhiều loại hạt và dầu thực vật.
Dựa trên số lượng những loại a xít béo này, các phụ nữ được xếp vào một trong 5 nhóm, từ mức thấp nhất đến mức cao nhất.
Những người ở mức thấp nhất có rủi ro sinh non cao hơn gấp 10 lần so với những người có 3 a xít béo omega-3 ở mức cao nhất. Phụ nữ ở nhóm thấp thứ hai có rủi ro cao hơn 2,7 lần so với phụ nữ ở mức cao hơn.
Tiến sĩ Sjurdur Olsen thuộc nhóm nghiên cứu nói rằng các chuyên gia chỉ đo mức a xít béo trong máu nên không rõ những phụ nữ nói trên có thể đã hấp thu bao nhiêu cá hoặc dầu cá.
Các a xít béo này có thể ngăn ngừa sinh non như thế nào chưa được xác định rõ. Cuộc nghiên cứu chỉa được thiết kế để tìm ra một mối liên quan, chứ không phải quan hệ nhân - quả, nhưng có một lý thuyết cho rằng các a xít béo có thể làm giảm tình trạng viêm, vì thế có thể hạ thấp rủi ro sinh non.
Bình luận (0)