Cuộc trường chinh của một biểu tượng du lịch

14/10/2022 06:27 GMT+7

Từ Genting đến Bà Nà, những biểu tượng du lịch của một điểm đến, một quốc gia thường được xây lên bởi hai phẩm chất tưởng như đối lập: sự liều lĩnh và sự nhẫn nại. Và trên tất cả, là có một doanh nghiệp đã cam kết với sứ mệnh có thể kéo dài nhiều thập niên.

Điểm chung của các “huyền thoại” du lịch

Kuala Lumpur đón ngày đầu tiên của năm 1971 bằng một cơn mưa rào. Cơn mưa tưởng chừng vô hại ở xứ nhiệt đới này nhưng nó không dừng lại. Trong những ngày sau đó, một trận đại hồng thủy đổ xuống thủ đô của Malaysia. Tháng 1.1971, Malaysia chịu đựng trận lũ lớn nhất thế kỷ qua. Hơn 100.000 người phải sơ tán. Thành phố hỗn loạn, với những gia đình phải lội bộ 8 tiếng trong mưa, những khu phố ngập cao hai mét rưỡi, và hàng chục con cá sấu từ các nông trại tràn ra, bơi trong nội đô.

Quang cảnh Sun World Bà Nà Hills

Cách Kuala Lumpur hơn 40 cây số, Lim Goh Tong chứng kiến cơ nghiệp bị quật tung trong bão gió. Ông đã mất 6 năm để xây dựng Genting Highlands Resort - khu resort trên núi đầu tiên và duy nhất của Malaysia. 6 năm đó không có một ngày nghỉ, hơn một lần suýt chết trên núi, và toàn bộ nguồn lực mà người đàn ông nhập cư đã gom góp trong 30 năm sự nghiệp đã được đổ vào dự án. Dự định của Lim Goh Tong là khai trương Genting vào dịp năm mới năm 1971. Chính phủ tuyên bố tình trạng thảm họa quốc gia. Không có ngày khai trương nào cho Genting vào tháng 1.1971. Nhưng cuộc tàn phá đó không khiến Lim Goh Tong sụp đổ. Trước khi bắt tay vào xây dựng, ông đã xác định rằng đó là một dự án kéo dài 40 năm. Tức là nó có thể sẽ chỉ hoàn tất sau khi ông qua đời.

Và đó dường như là điểm chung của các khu du lịch và giải trí đi trước thời đại, từ Disneyland, Genting Highlands cho đến Bà Nà Hills của Việt Nam: chúng khởi đầu là những quyết định táo bạo và gấp rút, nhưng công cuộc để hoàn thiện thường là những cuộc cam kết kéo dài đến cả hàng chục năm.

Các đại văn hào như Marcel Proust, Gustave Flaubert hay Henry Miller có chung quan điểm, những chuyến đi không phải là để ngắm khung cảnh khác lạ, mà là để chính mình có một con mắt khác nhìn cuộc đời.

Lim Goh Tong đến Malaysia năm 19 tuổi, từ một ngôi làng nghèo của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Ở quê nhà, khi cha mất sớm, nghề nông không thể giúp anh nuôi mẹ và các em.

Khi Thế chiến 2 kết thúc và quân Nhật rút khỏi Malaysia, chàng thanh niên Lim bỗng nhận ra một thị trường máy móc rất lớn nhằm phục vụ cho công cuộc tái thiết đất nước. Ông chủ Lim giàu lên nhờ buôn máy móc cũ, rồi từ việc sở hữu máy móc lại trở thành thầu xây dựng. Và cuối cùng, ở độ tuổi 50, ông muốn có dự án bất động sản của riêng mình.

Ý tưởng về một khu nghỉ mát trên cao hình thành trong đầu Lim Goh Tong từ năm 1963, trong một đêm uống rượu với các kỹ sư tại một dự án thủy điện. Ông kể rằng một cơn gió núi lạnh thổi qua mình đêm ấy, và Lim, trong cảm giác sảng khoái, bỗng nhận ra rằng Malaysia cần một khu nghỉ mát trên núi. Lim mở bản đồ, và chọn một vùng núi gần thủ đô Malaysia: Cao nguyên Genting. Địa điểm khi ấy là một khu rừng hoang vu. Không đường lên, không hạ tầng. Lim quyết định xây một resort ở độ cao 1.800 mét. Khi đó, nhiều người cho rằng ông thầu xây dựng này bị điên. Thời điểm đó, GDP của Malaysia chưa đến 3 tỉ USD, tức là bằng GDP của Việt Nam năm 1986, năm cuối cùng của thời bao cấp.

Năm 1965, Lim Goh Tong nộp đơn xin gần 5.000 héc ta của bang Pahang và 1.100 héc ta của bang Selangor. Pahang chấp thuận nhưng Selangor chỉ muốn cho ông thuê đất trong 99 năm. Ông Lim tới gặp Thống đốc bang Selangor và nói: dự án này sẽ cần đến 30 hoặc 40 năm và một khối lượng đầu tư khổng lồ để xây đường, khách sạn, đội ngũ, hạ tầng điện nước giữa rừng xanh. Ông muốn được giao đất không thời hạn. Thống đốc Selangor bị thuyết phục.

Sun World Fansipan Legend

Không cần kể hết khó khăn của một nhà thầu khi một mình xây dựng một khu nghỉ mát hàng nghìn héc ta trên đỉnh núi trong suốt 6 năm sau đó. Lim Goh Tong tin rằng đó là số trời. Có ngày, ông về nhà kể với vợ rằng mình vừa suýt bị chết vùi trong đất đá, “nhưng tôi được gọi về để xây nốt khu này”.

Khu resort trên cao nguyên Genting trở thành địa điểm thu hút 30 triệu lượt khách mỗi năm (con số dự kiến của năm 2022, khi xã hội vừa trở lại sau Covid-19). Còn bản thân tập đoàn Genting trở thành một thương hiệu quốc gia, với doanh thu thường niên khoảng 5 tỉ USD. Họ đang phát triển các khu resort tại Singapore, các tổ hợp giải trí tại Macau, Nhật Bản và khắp châu Á Thái Bình Dương.

Sau 40 năm, Genting trở thành cái tên đầu tiên được nhắc đến, mỗi khi ai đó nhắc đến một quần thể giải trí tại Đông Nam Á, và là hình mẫu cho các quốc gia đang phát triển muốn tạo dựng tên tuổi trên bản đồ du lịch thế giới.

Vị doanh nhân này chỉ tính sai ở một điểm: Genting vẫn còn đang được tiếp tục xây dựng cho đến tận 60 năm sau ngày khởi công. Hơn một thập niên sau ngày Lim Goh Tong ra đi, các con ông vẫn đang miệt mài xây dựng khu resort huyền thoại này. Gần nhất, năm 2017, họ cam kết đầu tư gần 1 tỉ USD trong thập niên tới cho Genting Highlands Resort.

“Mười năm chỉ là bắt đầu”

Đầu tư các tổ hợp giải trí lớn là bỏ tiền chẵn, thu tiền lẻ. Không chỉ có ông thầu Lim Goh Tong, đến ngay cả Walt Disney - đã sở hữu 24 tượng vàng Oscar, những ngày đầu tiên tìm tiền xây Disneyland cũng phải thốt lên: “Tôi không thể nào thuyết phục giới tài chính rằng Disneyland là khả thi, vì các giấc mơ có giá trị thế chấp quá thấp”.

Điểm hòa vốn của các tổ hợp du lịch/giải trí như Genting, Sentosa, Disneyland hay sau này là Bà Nà Hills tại Đà Nẵng, không tính bằng năm. Chúng luôn được tính bằng thập niên. Và trong thời gian đó, chủ đầu tư vẫn luôn phải nghĩ tới việc tái đầu tư, nâng cấp điểm đến. Với những khu vực hiểm trở như Genting hay Bà Nà, ngoài tiền phát triển điểm đến, chủ đầu tư còn cần phát triển cả hạ tầng tiếp cận. “Muốn vào bẫy du lịch? Cứ đầu tư vào hạ tầng du lịch”, John Kjorstad, chuyên gia chính sách cao cấp của KPMG, viết trên blog của Ngân hàng Thế giới năm 2015. Ông chỉ ra ngay cả những nhà đầu tư sừng sỏ của các nước phát triển cũng có thể “tèo” vì một dự án hạ tầng du lịch. Đó có lẽ là lý do mà chính quyền thành phố Đà Nẵng, bất chấp khao khát phát triển Bà Nà từ rất sớm, không thể thuyết phục được các nhà đầu tư lớn lên đỉnh núi này. Ngay cả các lãnh đạo của Sun Group, trong lần đầu tiên đặt chân lên đỉnh Bà Nà, cũng chung một quan điểm là “rất quan ngại”. “Buồn và âm u”, ông Vũ Huy Thắng, tổng chỉ huy công trình xây dựng cáp treo Bà Nà hồi đó, nhớ lại. “Mỗi năm khai thác được có ba tháng hè. Hết mùa du lịch là phải dỡ từ chăn màn tivi tủ lạnh đem xuống núi. Mùa mưa, tường lúc nào cũng sũng nước”, ông Đặng Minh Trường, Chủ tịch Sun Group, nói về tình trạng kinh doanh du lịch trên đỉnh núi thời điểm năm 2007. Nguyên Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL Lê Quang Tùng cũng tỏ ý ngạc nhiên khi Sun Group quyết định đầu tư, bởi “nơi này xa thành phố, lại không có biển” (ông nói, khi tham quan dự án tại Bà Nà năm 2008).

Việc xây dựng một tuyến cáp treo lập nhiều kỷ lục thế giới lên tận đỉnh Bà Nà, để tạo thành một luồng du lịch “không tiếp cận” (khách không trực tiếp đặt chân lên rừng già), chỉ có thể hoàn thành nhờ vào sự quyết tâm kiến tạo nên một biểu tượng du lịch mới, của chính quyền, nhân dân, từng người thợ và kỹ sư Đà Nẵng, chứ không chỉ có chủ đầu tư. Thực tế, cũng giống như hành trình của Genting hay Disneyland, hoàn tất xây dựng một giai đoạn và khai trương chỉ là điểm khởi đầu. Ông Đặng Minh Trường nhớ lại, có những mùa đông mỗi ngày chỉ đón vài trăm lượt khách, nhưng vẫn phải vận hành toàn bộ khu du lịch. Cứ mỗi mùa ẩm qua đi, là một cuộc thay thế toàn bộ trang thiết bị vì không thể chịu được sự khắc nghiệt của thời tiết trên đỉnh núi.

Nhưng những gì mà Bà Nà Hills sau này mang lại cho Đà Nẵng và thương hiệu của ngành du lịch Việt Nam không thể đo đếm hết bằng con số. Trước khi có “hiện tượng Cầu Vàng”, tổ hợp giải trí trên đỉnh núi này đã là thương hiệu chính yếu của du lịch miền Trung. Một vài nhà cung cấp tour quốc tế khẳng định, rằng cứ 3 khách liên hệ đặt tour đến Đà Nẵng thì có 2 người yêu cầu Cầu Vàng và Bà Nà Hills. Sau “hiện tượng Cầu Vàng” với hơn 200 bài báo quốc tế và hình ảnh cây cầu lấp lánh trong mây tràn ngập mạng xã hội khắp hành tinh, Việt Nam chính thức có một biểu tượng du lịch mới.

Trong tầm nhìn của Sun Group, Bà Nà Hills sẽ phải nằm ở cùng đẳng cấp của Genting hay Disneyland, ở cả khía cạnh trải nghiệm lẫn kiến trúc, và qua đó là số lượng khổng lồ 20-30 triệu lượt khách mỗi năm. Cho đến năm 2019, số tiền thể hiện trên giấy tờ mà Sun Group xây dựng Bà Nà Hills là 8.000 tỉ đồng, nhưng ông Đặng Minh Trường cho biết thực tế con số sẽ còn lớn hơn nhiều lần như thế. “Mười năm bây giờ mới chỉ là bắt đầu”, chủ tịch Sun Group nói nhân 10 năm ngày khánh thành cáp treo Bà Nà. Có thể nói, Bà Nà Hills là hình ảnh tiêu biểu cho nỗ lực xây dựng biểu tượng quốc gia trong một ngành đặc thù: du lịch - nơi mà người ta phải quyết nhanh nhưng lại phải đi lâu dài, đổ tiền chẵn kiếm tiền lẻ.

Việt Nam từ những góc nhìn khác

5 năm trước tại Phú Quốc khi ngồi xem bộ phim dài 90 phút nhân kỷ niệm ngày Sun Group tròn 10 tuổi, tôi nghe lãnh đạo Tập đoàn này kể những năm 2000 khi họ mời đối tác đến Việt Nam đầu tư, hành trang mà những doanh nhân nước ngoài mang tới Việt Nam chủ yếu là... thực phẩm. Thời điểm đó, Việt Nam chỉ là một cái tên mờ nhạt trên bản đồ du lịch thế giới. Thế nên với rất nhiều người nước ngoài, chiến tranh, nghèo đói là những thông tin đã ăn sâu trong đầu họ về Việt Nam. 1 năm sau đó, năm 2001, trong chuyến ra nước ngoài lần đầu tiên tới đảo Síp, ông Đặng Minh Trường, Chủ tịch Sun Group, kinh ngạc khi chứng kiến hòn đảo nhỏ bé ở Địa Trung Hải với bãi biển toàn sỏi, tài nguyên, cảnh vật tiêu điều nhưng thu hút mỗi năm 15 triệu khách du lịch từ châu Âu. Trong khi Việt Nam có hàng ngàn km bờ biển, nhiều hòn đảo tuyệt đẹp, danh lam thắng cảnh trải dài khắp mọi miền tổ quốc, đồ ăn thức uống phong phú, đa dạng...lại ít người biết đến. Kỷ niệm cũ day dứt khôn nguôi và thực tế đảo Síp hiện lên trước mắt đã khơi dậy trong những doanh nhân trẻ khi đó một câu hỏi lớn: Làm thế nào để Việt Nam được thế giới biết đến nhiều hơn khi chúng ta sở hữu trong tay nhiều tài nguyên du lịch? Và hành trình “Làm đẹp những vùng đất” đã chính thức khởi động từ Bà Nà Hills.

Đúng như ông Trường nói: “Mười năm mới chỉ là bắt đầu”. 10 năm trước, được nhìn thấy mây trắng trên nóc nhà Đông Dương - Fansipan là đặc quyền của những người có sức khỏe tốt. Ngày nay, những người đi xe lăn, các bạn nhỏ, và cả những bậc lão niên đã dành cả đời làm lụng trên những cánh đồng, chưa một lần leo núi hay chạm vào mây, cũng có thể được đứng trên đỉnh núi cao nhất Việt Nam. Hàng triệu người thăm đỉnh Fansipan mỗi năm mà không chạm vào cánh rừng Hoàng Liên phía dưới, thông qua hệ thống cáp treo của Sun World Fansipan Legend.

5 năm trước, cách duy nhất để du khách chiêm ngưỡng vịnh An Thới, một trong những quần đảo có rạn san hô rộng nhất Việt Nam nằm ở phía nam Phú Quốc, là bằng một chuyến tàu gỗ với thời gian dài bốn mươi lăm phút. Không có dịch vụ gì trên các đảo nhỏ này. Ngày nay, họ nhìn thấy toàn bộ vùng biển từ trên cáp treo và được ngắm những bờ cát nguyên sơ nhất của đất nước. Cũng ngày nay, từ trên Vòng quay Mặt trời và cáp treo Nữ hoàng của Sun World Ha Long (Quảng Ninh), hàng triệu người có thể nhìn ngắm vịnh di sản từ trên cao, khung cảnh mà chỉ một thập niên trước họ chỉ được nhìn thấy trên tivi. Và “Làm đẹp những vùng đất”, theo lãnh đạo Sun Group, không chỉ là bổ sung vào khung cảnh những quần thể kiến trúc được thiết kế tỉ mỉ bởi các kiến trúc sư hàng đầu thế giới. Đó còn là việc cho phép con người được tiếp cận với hệ sinh thái, với khung cảnh và những nền văn hóa khác. Điều đó lý giải vì sao, ngoài Bà Nà Hills đã trở thành một biểu tượng thì cáp treo lên núi Bà Đen (Tây Ninh) luôn là nơi thu hút đông khách tham quan nhất. Ngọn núi nằm giữa một vùng đồng bằng rộng lớn, nơi có nhiều thế hệ người Việt đã sinh sống mà chưa một lần được nhìn đất nước từ trên cao.

Khung cảnh vẫn ở đó, nhưng người ta luôn có thể làm nó đẹp hơn, bằng những góc nhìn khác.

Du lịch mang lại những trải nghiệm. Trải nghiệm mang lại hạnh phúc. Đến cuối cùng thì ai cũng đi tìm kiếm hạnh phúc, và những trải nghiệm du lịch tạo ra điều đó. Đó có thể là hạnh phúc ngay lúc bạn đi, cũng có thể là cảm xúc về những hoài niệm khi bạn nhớ lại.

Ông Đặng Minh Trường

Ngày nay, nhiều triệu lượt khách ghé thăm Bà Nà Hills mỗi năm, và tham gia vào một chuỗi trải nghiệm bất tận. Nếu năm 2018 có Cầu Vàng, có show Vũ hội Ánh Dương thì năm 2022 du khách được thết đãi hàng loạt sản phẩm mới, nào Thác Thần Mặt trời, Lâu đài Mặt Trăng, Cổng thời gian, show Trận chiến ở Vương quốc Mặt trăng… Trước đây, Bà Nà Hills thu hút du khách bằng cảnh quan thiên nhiên trong lành, mát mẻ và những công trình mang sắc màu châu Âu như khách sạn Làng Pháp, nhà thờ, các vườn hoa đủ loại hay công viên giải trí trong nhà Fantasy Park. Mục tiêu của tổ hợp này là khiến du khách mỗi lần quay trở lại, lại thấy “wow”, choáng ngợp bởi những sản phẩm đẳng cấp khác.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.