Tại kỳ họp 7 cuối tháng 5.2019, khi Quốc hội bàn về luật Giáo dục sửa đổi, đại biểu (ĐB) Đinh Duy Vượt (Phó trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Gia Lai), lần đầu tiên đã đưa tới nghị trường sự bức xúc liên quan đến những quy định về chứng chỉ tin học, ngoại ngữ và các loại chứng chỉ bồi dưỡng theo chức danh nghề nghiệp, khi ông khẳng định rằng những yêu cầu chứng chỉ này đang “ẩn chứa nhiều nhiêu khê, lợi dụng, đẻ ra các loại giấy phép con, làm khó, làm khổ giáo viên (GV) đã và đang xảy ra mà gần như 100% GV đều bức xúc kêu ca”.
Quy định có thực chất không ?
ĐBQH tỉnh Gia Lai cho rằng, việc quy định buộc GV phải có chứng chỉ “nghe thì rất hay” và hợp lý nhưng chỉ là hình thức, không có tác dụng thực chất và còn gây ra nhiều hệ lụy buộc GV phải gian dối hoặc mua chứng chỉ, hoặc học giả, thi bao đỗ.
“GV phải lặn lội hàng trăm cây số về tỉnh về huyện mới có nơi học ngoại ngữ và học xong không biết dùng để làm gì. Chúng ta tự hỏi quy định này có thực chất với bản thân mình không rồi hãy quy định cho người khác. Thậm chí, có giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên đã nói rằng ông cảm thấy xấu hổ vì giống như họ đi móc túi GV nhưng vẫn phải mở lớp vì không làm thì các trường khác họ cũng làm để thu tiền”, ĐB Đinh Duy Vượt đã nói tại Hội trường Diên Hồng cuối tháng 5 như vậy. Ông Vượt cũng nói thêm rằng, hàng vạn GV sẽ rất vui mừng nếu như sớm bỏ quy định buộc GV phải có các loại chứng chỉ mà các thông tư liên tịch của Bộ GD-ĐT và Bộ Nội vụ đang quy định.
Nhưng đem những băn khoăn ấy hỏi ông Nguyễn Tiến Dĩnh, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, trong giai đoạn “thai nghén” những tiêu chuẩn đối với viên chức, thì chúng tôi lại nhận được quan điểm ngược lại. Ông Dĩnh nhấn mạnh chứng chỉ tin học, ngoại ngữ đối với viên chức là cần thiết “trong quá trình hội nhập quốc tế, bước vào thời đại 4.0” và việc đưa ra là “có ý đồ”. Theo đó, ông cho rằng tiến tới ta phải dạy ngoại ngữ ngay từ mầm non nên GV mầm non cũng phải có chứng chỉ tiếng Anh. “Giờ chúng ta cứ đòi nâng cao chất lượng, mà đưa ra tiêu chuẩn chúng ta lại kêu. Thế thì làm thế nào để nâng cao chất lượng được?”, ông Dĩnh nói, dù thừa nhận “tùy từng vị trí, có những chỗ không nhất thiết phải có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học, thì phải nghiên cứu lại để cho phù hợp với thực tế”.
Nhưng sự thừa nhận “có những chỗ không cần thiết” ấy chỉ có trong trao đổi của một nguyên thứ trưởng.
Trả lời Thanh Niên, một lãnh đạo Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Y tế kiên quyết không bàn tới sự hợp lý hay không, mà khẳng định: “Là cơ quan quản lý nhà nước, chúng tôi thực hiện theo luật. Không thể luật quy định mà chúng tôi lại bảo không được”.
Còn lãnh đạo Cục Nhà giáo của Bộ GD-ĐT, nơi chủ trì soạn thảo các thông tư về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp cho GV, khi được hỏi về sự phù hợp với yêu cầu thực tế của các loại chứng chỉ cũng chỉ dẫn lại các điều luật và nhấn mạnh: “Đây cũng là yêu cầu chung đối với viên chức nói chung, không chỉ riêng đối với viên chức ngành giáo dục”. Hàm ý mà chúng tôi hiểu được từ các vị lãnh đạo ấy là: “Luật nó thế!”?
Chúng ta dựa vào chuẩn như chứng chỉ, bằng cấp nhưng thực ra lại không chuẩn vì không ai kiểm soát điều kiện đảm bảo chất lượng của những chứng chỉ ấy. Dựa trên một cái không chuẩn để định ra chuẩn là mất chuẩnTiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp Bộ GD-ĐT |
Chứng chỉ có làm tăng chất lượng công chức, viên chức ?
“Những yêu cầu về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học và bồi dưỡng nghiệp vụ hiện nay có làm tăng chất lượng công chức, viên chức hay không?”, chúng tôi đã đặt câu hỏi này với lãnh đạo Bộ Nội vụ. Trong câu trả lời mà chúng tôi phải đợi khá lâu mới có, Bộ Nội vụ không đi thẳng vào câu hỏi, mà chủ yếu lý giải nguyên nhân vì sao phải ban hành các tiêu chuẩn, yêu cầu về chứng chỉ.
Theo đó, yêu cầu về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học và bồi dưỡng nghiệp vụ được quy định trong tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn bổ nhiệm từ những năm 1990 (ví dụ như tại Quyết định số 414/TCCP-VC ngày 29.5.1993 của Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ về ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành hành chính) chứ không phải mới đặt ra sau này. Trong các quy định về tiêu chuẩn ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức và chức danh lãnh đạo quản lý hiện nay đều có các quy định về ngoại ngữ và tin học.
Tuy nhiên, câu trả lời này chỉ chứng minh được tính… lâu năm của yêu cầu chứng chỉ, chứ không chứng minh được tác dụng của nó. Theo văn bản được Bộ Nội vụ đề cập ở trên, chúng tôi thấy rằng, từ năm 1993, yêu cầu trình độ đối với chuyên viên cao cấp đã là “có ít nhất 1 ngoại ngữ trình độ C (đọc, nói thông thạo)”, thậm chí còn cao hơn là “có công trình nghiên cứu lý luận về khoa học quản lý sáng tạo được Hội đồng khoa học ngành thừa nhận, đưa vào áp dụng có hiệu quả”; chuyên viên chính phải “có 1 ngoại ngữ trình độ B (đọc, nói thông thường)”, “có những đề án, công trình có sáng tạo trong quản lý (được Hội đồng khoa học hoặc Bộ thừa nhận đưa vào áp dụng có hiệu quả)”... những tiêu chuẩn cho đến nay cũng chưa chắc đã được đáp ứng đầy đủ.
“Việc nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu hết sức cấp thiết trong giai đoạn hiện nay”, Bộ Nội vụ thông tin thêm, đồng thời lý giải khi xây dựng các tiêu chuẩn ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức, Bộ Nội vụ đều chú trọng xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể để đáp ứng được yêu cầu của từng vị trí việc làm đối với từng chuyên ngành do các bộ quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực quy định để đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số 26 của T.Ư về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Tuy nhiên, Nghị quyết T.Ư yêu cầu nâng cao năng lực cán bộ không đồng nghĩa với việc yêu cầu có chứng chỉ, điều mà Bộ Nội vụ vẫn né tránh trả lời thẳng.
Tin “tờ A4” hơn năng lực thực tế
Nhưng việc áp dụng các tiêu chuẩn đã được luật định, không cần biết tới việc có phù hợp thực tế hay không chính là nguồn gốc nảy sinh đủ thứ hệ lụy tiêu cực.
Khẳng định việc yêu cầu tiếng Anh, tin học đối với viên chức là cần, song tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp Bộ GD-ĐT, nhìn nhận việc “quy” các tiêu chuẩn về trình độ, bồi dưỡng thành các chứng chỉ khiến người ta tin vào “tờ giấy A4” hơn là năng lực thực tế của các ứng viên hay cả Hội đồng tuyển dụng viên chức. “Chúng ta dựa vào chuẩn như chứng chỉ, bằng cấp nhưng thực ra lại không chuẩn vì không ai kiểm soát điều kiện đảm bảo chất lượng của những chứng chỉ ấy. Dựa trên một cái không chuẩn để định ra chuẩn là mất chuẩn”, ông Vinh nói.
Theo ông Vinh, những quy định cứng nhắc này chính là nguồn gốc của tiêu cực bởi nếu tuyển GV chỉ phỏng vấn ít câu là ra năng lực thực tế ngay. Và khi các hội đồng tuyển dụng làm thật thì họ sẽ phải học thật. “Bây giờ chúng ta chỉ yêu cầu chứng chỉ thì đương nhiên họ đi mua chứ cần gì học trong nhà trường nữa”, ông Vinh phân tích, đồng thời cho rằng cần phải bỏ những yêu cầu chứng chỉ này vì ngay trong “Khung trình độ quốc gia” do Thủ tướng ban hành đã quy định về chuẩn đầu ra bao gồm cả trình độ ngoại ngữ đối với từng trình độ đào tạo.
Cùng quan điểm này, ông Nguyễn Quang Đồng, chuyên gia về chính sách công, nhận định việc đặt ra hệ thống tiêu chuẩn chứng chỉ và yêu cầu phải có chứng chỉ mới được tuyển dụng chính là nguyên nhân sản sinh ra một thị trường chứng chỉ đầy tiêu cực mà ai cũng thấy. Theo ông Đồng, tiêu chuẩn, chứng chỉ được đưa ra nhằm đảm bảo chất lượng, năng lực đầu vào. Nhưng năng lực ở đây phải bắt nguồn từ năng lực của Hội đồng tuyển dụng viên chức chứ không chỉ đơn thuần dựa vào chứng chỉ. Chứng chỉ chỉ nên coi như một tiêu chí tham khảo. “Ở Việt Nam những tiêu chuẩn đang đẻ ra hệ quả rất nặng nề chính là thị trường văn bằng chứng chỉ đủ loại mà chứng chỉ tiếng Anh, tin học hay thậm chí giấy chứng nhận sức khỏe chỉ là một phần”, ông Đồng nói và đồng tình rằng, cần phải loại bỏ bớt các loại tiêu chuẩn, chứng chỉ mới có thể ngăn chặn hệ lụy tiêu cực mà nó gây ra. (còn tiếp)
Bình luận (0)