Tiếc cho đề án Ngôi làng Việt gần 20 năm nằm trong tủ !

Trần Thanh Bình
Trần Thanh Bình
15/11/2020 05:47 GMT+7

Đây không phải là đề án bình thường, mà là tâm huyết của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng về những ngôi làng Việt ứng phó với biến đổi khí hậu.

Khi hằng năm, bão lũ thiên tai ập đến với đồng bào, thì đề án này dù được nhiều giải thưởng quốc tế lẫn trong nước, vẫn nằm im... trong ngăn tủ!
Ngày 3.11, trước khi tôi lên đường đi cứu trợ miền Trung, ông gọi điện thoại và hẹn sẽ cho xem một đề án ông ấp ủ đã bao năm. Mỗi khi thiên tai xảy ra trên dải đất hình chữ S này, ông lại ngậm ngùi giở ra và cất lại. Cho đến tuần rồi, sau khi về, gặp ông trên căn gác ở đường Trần Khắc Chân (P.Tân Định, Q.1, TP.HCM), tôi mới được “mục sở thị”...
Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng quê quán TP.Huế, sinh ra và sống tại Sài Gòn. Học Petrus Ký Sài Gòn, học Đại học Kiến trúc TP.HCM, tốt nghiệp năm 1982. Thực tập ở Đồng Nai vài năm, về lại Sài Gòn mở Công ty tư vấn xây dựng Việt Kiến Trúc và tham gia Ban Chấp hành Hội Kiến trúc sư TP.HCM. Ông có nhiều bản thiết kế, đề án đạt nhiều giải thưởng quốc tế và quốc gia. Đến nay đã xuất bản 7 cuốn sách du khảo về TP.HCM và các vùng miền trên cả nước.
Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng kể rằng, đề án Ngôi làng Việt ứng phó với biến đổi khí hậu của ông được nghĩ và viết ra sau bao đêm thao thức. Đề án nhằm giúp đồng bào mình ở các vùng miền có thể yên ổn, khi mỗi năm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu càng lộ rõ và hành hạ dân mình quá nhiều. Năm 2002, đề án được trao giải thưởng danh dự tại Berlin (Đức) do UNESCO và Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) phối hợp trong một cuộc thi với chủ đề Kiến trúc và nước. Sau đó, cũng với đề án này, kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng và cộng sự được Bộ Tài nguyên - Môi trường trao giải nhì. Hội Kiến trúc sư Việt Nam thì dành riêng cho ông với Bằng sáng tạo kiến trúc...

Hy vọng đến một ngày, trên những vùng đất tôi đi qua, những ngôi làng Việt từ trong đề án này được hiển lộ trên núi đồi, đồng bằng và đồng bào yên ổn sinh sống mỗi khi bão lũ ập về

 
Có lẽ, với một kiến trúc sư, những giải thưởng danh giá như vậy cũng đã tạo dấu ấn, nhưng sao hình như vẫn thấy ông chưa vui?
Đúng, bởi vì tôi không phải thiết kế cho riêng mình, không vẽ vì giải thưởng. Tôi đã ấp ủ và xây đắp cho đồng bào mình một mô hình, từ ý tưởng cho đến thực hiện xong đề án là một quãng thời gian say mê và hạnh phúc. Nhưng sau bao năm, khi đạt các giải thưởng, đề án vẫn nằm trên giấy. Đó là nỗi trăn trở lớn nhất của một đời làm nghề kiến trúc. Tôi nghĩ rằng, nếu hiện thực hóa được mô hình này từ nhiều năm trước trên mỗi vùng miền, làng mạc xóm thôn thì biết đâu, sẽ góp phần giúp được cho bà con đỡ phải sống trong cảnh gieo neo, chật vật và kể cả đau đớn nhất là họ buộc phải đánh đổi cả mạng sống. Bao nhiêu thứ bị vùi dập, bị trôi theo dòng lũ dữ, bị mất đi nhà cửa, tài sản bởi những cơn bão xuất hiện ngày càng dày. Nhưng, như cổ nhân từng nói, vẫn còn chưa muộn... và tôi vẫn nuôi hy vọng. Hy vọng đến một ngày, trên những vùng đất tôi đi qua, những ngôi làng Việt từ trong đề án này được hiển lộ trên núi đồi, đồng bằng và đồng bào yên ổn sinh sống mỗi khi bão lũ ập về!

Vài nét đề án Ngôi làng Việt ứng phó với biến đổi khí hậu

1. Nhà trung tâm cộng đồng:
Theo đề án, được gọi là trung tâm làng, là một khu đất duy nhất của ngôi làng Việt được đắp nổi từ 2 - 3 m, xây kè đá tảng ta luy chung quanh chống nước lũ. Một phần đất kế tiếp được đắp thấp hơn, từ 1 - 2 m, dùng làm công viên, sân thể dục thể thao, trồng cây chịu được nước. Quanh trung tâm làng trồng tre, trúc, loại cây có bóng mát như đa, bàng, phượng...
Quy mô dự kiến: Gồm 1 tầng hầm dùng để lưu trữ nước mưa dẫn từ mái xuống; 1 tầng trệt bố trí các hạng mục cộng đồng; 1 tầng lầu bố trí đình làng. Kiến trúc nhà cộng đồng kết cấu bằng khung kéo bê tông cốt thép, tường sàn và nền xây bằng đá tảng, mái bê tông cốt thép được bố trí mảng rộng, gắn các tấm pin năng lượng mặt trời. Hình dáng mái nhà được tính toán từ thấp đến cao, uốn quanh, giảm sức gió bão ập đến, là nơi dân làng trú ẩn khi có thiên tai.
Nhà cộng đồng được tính toán quy mô vừa đủ cho số gia đình, có thể tự cung tự cấp khi bị cách ly do lũ lụt.
2. Ngôi nhà:
Có đế bằng đá tảng hoặc gạch chịu lực cao từ 1,5 - 2 m. Bên trên nhà 3 gian 2 chái cổ truyền, phía sau có bếp, vệ sinh, trên đế là hầm biogas dùng làm chất đốt, mái gắn pin năng lượng mặt trời, diện tích xây dựng từ 24 - 60 m2 tùy vùng miền.
Kết cấu bằng ống thép, có dây cáp giằng. Vật liệu xây dựng có thể bằng các loại tấm fibro phẳng, tấm panel 3D hoặc panel bằng rơm ép, cột ép. Có thể dùng tấm phên tre đắp đất cổ truyền trộn hỗn hợp keo kết dính, giảm giá thành.
3. Diện tích đất:
Một ngôi nhà với diện tích đất xung quanh khoảng 200 m2 x 300, tức là khoảng 6 ha; đất trung tâm làng 2 - 3 ha; đất ao làng: 1 - 2 ha. Ngoài ra có đất cho trồng cây, sân thể dục thể thao, đậu xe... Tổng diện tích ngôi làng 300 hộ cần khoảng 15 - 17 ha.
4. Kế hoạch thực hiện:
Chính phủ cấp đất ở vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai và tài trợ kinh phí đầu tư giao thông, nối mạng và các nhà máy tiền chế.
Chính quyền địa phương: Đầu tư cung cấp các đế nhà và hồ chứa nước sinh hoạt, nhà cộng đồng, sân bãi thể dục thể thao.
Tài trợ của các tổ chức: Thiết bị pin mặt trời, biogas, ghe thuyền đi lại.
Người dân: Vay vốn ngân hàng mua nhà có ưu đãi, tự lắp đặt theo quy mô, quy cách với đơn giá khoảng trên dưới 100 triệu đồng/căn.
Ông đã từng nói trong các quyển sách du khảo của mình, rằng giữ được tâm thế cho người dân sinh sống ổn định, giữ được bản sắc văn hóa của làng, là giữ được hồn nước. Điều ấy được thể hiện trong đề án Ngôi làng Việt như thế nào?
Mục đích của tôi rất nhất quán. Khởi thủy từ suy nghĩ rằng Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu. Có khoảng trên dưới 10 triệu dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng bão lũ phải hứng chịu những thay đổi to lớn này với bão tố, lũ lụt, sạt lở, thiếu nước sạch. Các hoạt động ăn ở, đi lại, việc làm, học hành... đều phải bị chi phối.

Bản phối cảnh Ngôi làng Việt ứng phó với biến đổi khí hậu

Ảnh: NVCC

Dù muốn dù không, tương lai trong vài mươi năm tới, ở những vùng đất thấp như miền Trung, miền duyên hải, miền Tây... người dân phải sống chung với ngập nước, nếu không muốn mất đất, họ phải di dời lên vùng đất cao hơn. Hoặc họ đành chọn cách “ly hương”, rời bỏ ruộng đồng vào thành phố kiếm sống. Nhưng hiện nay trên 50% dân số nước ta vẫn sống và mưu sinh ở nông thôn, bởi tập quán, tình cảm gắn bó với nguồn cội, quê cha đất tổ... Họ chọn ở lại quê nhà, và họ phải đương đầu với những tác động vô lường của biến đổi khí hậu, mà những diễn biến bão, lũ vừa qua đã minh chứng rõ ràng cho điều đó.
Vậy giải pháp thực tế với mô hình Ngôi làng Việt của ông sẽ giúp gì cho người dân? Và hình mẫu căn bản, cụ thể để bà con có thể trụ lại ở làng?

Một đề án tâm huyết với đồng bào

Ảnh: NVCC

Tôi và kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng thường xuyên gặp nhau trao đổi về chuyên môn. Dũng là người con của miền Trung nên rất thấu hiểu về cuộc sống của người dân ngoài đó. Mùa bão lũ đến hằng năm, nên Dũng đã suy nghĩ, tư duy về một mô hình làng Việt với những ngôi nhà cho bà con sinh sống an toàn, một cách rất nghiêm túc, có chiều sâu. Đề án đã được Dũng tham khảo, lấy ý kiến bạn bè đồng nghiệp để tăng chất lượng của tác phẩm và tăng tính khả thi, với ao ước sẽ được triển khai trong thực tế, góp phần giúp đỡ, hỗ trợ đồng bào mình. Mặc dù đã được đề xuất và đạt giải quốc tế cách đây 18 năm, nhưng vẫn rất thời sự, khi người dân vẫn rất gian khó chống đỡ với thiên tai bão lũ ngày càng dày. Chỉ cần cập nhật thêm các loại vật liệu tổng hợp hiện nay, vốn rất đa dạng, phong phú, giá thành rẻ.
Tôi rất ủng hộ kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng để hoàn thành tâm nguyện, tiếp tục triển khai và biến ý tưởng đề án này thành hiện thực, một đế án rất tâm huyết với đồng bào mình.
Kiến trúc sư Nguyễn Thanh Toàn (nguyên Phó giám đốc Sở Quy hoạch - Kiến trúc TP.HCM)
Nếu diễn tả hết mô hình sẽ rất dài, bởi nhiều thứ cần đưa vào trong việc xây dựng một ngôi làng, sao cho vừa mang tính thuần Việt, vừa ứng phó với thiên tai. Phải giải quyết được bài toán về ăn, ở, làm việc, đi lại, thể dục thể thao (TDTT), giải trí, học hành và cả tín ngưỡng của người dân. Tôi chỉ nói vắn tắt như thế này: làng phải có một nhà cộng đồng quy mô lớn cho khoảng 300 hộ trở lên (tùy quy mô của số gia đình), đảm bảo đủ nước sinh hoạt, các khu vực để cất giữ nông sản, nông cụ; nơi để bà con có thể tổ chức các hoạt động cần thiết, có điện tích lũy từ năng lượng mặt trời; hầm cung cấp khí biogas... Đặc biệt, phải xây dựng trên các gò đất cao nhất làng, nếu vùng trũng thì phải đắp đất cao, được thiết kế thông minh để tránh luồng gió xoáy khi có bão. Mô hình làng Việt bền vững chứ không phải tạm bợ, nên phải tính đến những nhu cầu thiết yếu nhất cho các hộ gia đình một khi họ ở tập trung.
Tiếc cho đề án Ngôi làng Việt gần 20 năm nằm trong tủ !

Phối cảnh nhà cộng đồng của Ngôi làng Việt Ảnh: NVCC

Còn riêng về các ngôi nhà của mỗi gia đình, giải quyết được bài toán bền vững, cố định, giá thành rẻ, đủ năng lượng, nước sạch, một diện tích đất đủ để chăn nuôi, trồng trọt theo kiểu “vườn, ao, chuồng” và đi lại dễ dàng mùa khô cũng như mùa lũ... Được xây dựng trên các đế bằng đá hộc cao từ 1,5 - 2 m (tùy theo địa hình), ở đế có giữ các bình composite trữ nước, sử dụng các vật liệu bền và nhẹ, kiểu tiền chế. Phía tường nhà và mái nhà phải được sử dụng thép và có dây cáp giằng chặt. Theo thiết kế của đề án, nếu tính giá thành xây dựng một ngôi nhà như vậy chỉ khoảng 100 triệu đồng. Còn tổng thể xây dựng khoảng 300 ngôi nhà và trung tâm sinh hoạt cộng đồng, theo tính toán khoảng trên dưới 30 tỉ đồng/ngôi làng.
Tiếc cho đề án Ngôi làng Việt gần 20 năm nằm trong tủ !

Phối cảnh mặt cắt ngang căn nhà mẫu

Ảnh: NVCC

Điều tôi nghĩ đến nhiều nhất là nếu tâm huyết ở góc độ vĩ mô, khi nhà nước và các nhà tài trợ, các tổ chức xã hội và người dân chung tay, một khi có vài ngôi làng tiêu biểu được xây dựng, các tiêu chí ứng phó thiên tai được thể hiện một cách hiệu quả, thì việc nhân rộng mô hình này sẽ đem đến cho đồng bào các vùng miền thường gặp bão lũ được hưởng một cuộc sống yên ổn, sung túc.

Người của cộng đồng

Ảnh: NVCC

Ngoài những đề án, công trình chuyên môn về kiến trúc như Ngôi nhà Việt ứng phó với biến đổi khí hậu, Bệnh xá Đặng Thùy Trâm, Trung tâm y tế đảo Trường Sa lớn (thực hiện cùng các cộng sự)..., kiến trúc sư Dũng còn “dốc hết máu nghề” vào những cuốn sách anh viết. Series sách du khảo Lang thang phố thị của Dũng “mục kích” từ TP.HCM ra các tỉnh miền Trung, rồi quay về các tỉnh ĐBSCL... đến nay đã xuất bản được 7 đầu sách với số lượng phát hành tương đối lớn, phát hành ra cả nước ngoài thông qua kênh khách du lịch.
Trên tiêu chí phục vụ cộng đồng phi lợi nhuận, kiến trúc sư Dũng luôn “có máu” bỏ tiền túi ra để làm điều anh thích. Như với đề án Ngôi làng Việt ứng phó với biến đổi khí hậu, anh có ý muốn bỏ tiền làm một ngôi nhà mẫu để nhanh chóng hiện thực hóa đề án, nếu có ai lên tiếng đồng thuận, tôi cam đoan là anh sẽ làm, làm cho thỏa đam mê, làm để phục vụ cộng đồng.
Ngôi làng Việt ứng phó với biến đổi khí hậu, theo tôi là một đề án khả thi. Đề án phục vụ cộng đồng vùng bão lũ một cách hữu hiệu, đã được giải quốc tế, không có lý do gì phải nằm trong ngăn kéo mãi.
Nhà báo, nhà văn Thu Trân
Kỳ vọng của ông trong việc xây dựng những ngôi làng Việt như vậy có vẻ rất lớn, nhưng liệu có khi nào ông nghĩ lại sẽ một lần nữa rơi vào... im lặng?
Đó là công việc của một kiến trúc sư, đó là tâm huyết của tôi. Nhưng nếu như vẫn không thực hiện được như ý muốn, thì tôi sẽ xem đề án này như một nguồn an ủi, chỉ vậy mà thôi. Bởi, có nhiều điều mình muốn nhưng “lực bất tòng tâm”. Huống chi đây lại là một mô hình đòi hỏi phải có sự chung tay góp sức rất lớn từ nhiều phía. Riêng với bản thân mình, tôi sẵn sàng góp công sức xây dựng một ngôi nhà mẫu, để qua đó chứng thực được điều tôi ấp ủ viết ra không phải là viển vông. Nó có căn cứ, có cơ sở khoa học và nhất là nó sẽ đem lại niềm vui cho đồng bào mình, những người mà tôi vẫn thường nghĩ về.
Tiếc cho đề án Ngôi làng Việt gần 20 năm nằm trong tủ !

Phối cảnh một mẫu nhà có diện tích từ 60 - 80 m2

Ảnh: NVCC

Sự xuất phát và cũng là đích đến của đề án. Tôi hy vọng mọi người có cùng một điểm chung: đó là những ngôi nhà cụ thể, những mảnh vườn, những thứ ta chăn nuôi, trồng trọt để kiếm sống, các điều kiện sinh hoạt, con cái được học hành, giữ được tín ngưỡng tốt đẹp và cao hơn cả là hồn Việt trong mỗi làng quê, một cách bền vững.
Những điều ấy, đã, đang và sẽ tiếp tục bị đe dọa, buộc mỗi người trong chúng ta không bao giờ được ngơi nghỉ!
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
 
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.