Để có thể có được một tủ đồ xa hoa đúng nghĩa bạn sẽ phải trả rất nhiều tiền. Tiền thương hiệu của nhà mốt, nhà thiết kế, tiền thương hiệu nhà sản xuất vải và mấu chốt là tiền thành phẩm tạo nên nguyên liệu.
Sợi len vicuña
Len vicuña, hay còn gọi là 'sợi của Chúa', được biết đến là loại len đắt nhất thế giới. Nó được lấy từ những con cừu Vicuña của Peru ở miền Trung Andes (vùng Nam Mỹ). Loại cừu này chỉ có thể được cạo lông ba năm một lần. Khi thu hoạch người ta cũng chỉ có thể được lấy từ lưng và cổ của cừu. Vì sự hạn chế đó mà len vicuña từng là vật bảo quản độc quyền của hoàng gia Inca trong quá khứ.
Cừu Vicuña còn gọi là lạc đà Nam Mỹ là loại lạc đà không bướu, có nguy cơ tuyệt chủng vì chúng bị săn bắt gần như tuyệt chủng trong thế kỷ trước. Chỉ gần đây, quần thể cừu mới phục hồi đủ để khai thác lông làm vải nhưng bắt buộc phải tuân theo quy định nghiêm ngặt.
Hiện chỉ có ba công ty có quyền kiểm soát đối với len vicuña hợp pháp. Trong đó có công ty quần áo cao cấp mang tính biểu tượng của Ý - Kiton. Sự quý hiếm của vật liệu khiến cho giá thành của sản phẩm từ len vicuña có giá rất cao. Bạn thường phải trả ít nhất 50.000 USD cho một bộ vest từ len vicuña đặt làm riêng.
Sợi len shahtoosh
Shahtoosh đến từ Nepal và Ấn Độ, là một loại vải được dệt từ lông tơ của linh dương Tây Tạng (Chiru). Cực kỳ tốt, shahtoosh được coi là vua của các loại len mịn và do đó được sử dụng trong những chiếc khăn choàng cực kỳ sang trọng có giá lên tới 5.000 USD.
Những chiếc khăn choàng chỉ được dệt bởi những thợ dệt bậc thầy của Kashmir - nơi duy nhất có thể xử lý được loại nguyên liệu này.
Ở một số quốc gia việc sở hữu và bán shahtoosh đang bị coi là bất hợp pháp. Bởi, Chiru đang là loài có nguy cơ tuyệt chủng do những kẻ săn trộm, khai thác mỏ...
Đây cũng là một phần lý do để loại vải từ nguyên liệu lông tơ của Chiru vọt lên hàng đắt đỏ nhất nhì thế giới.
Sợi và thành phẩm shahtoosh
Sợi baby cashmere
Những sợi lông tơ mềm mịn của những con dê non cashmere (hay Capra Hircus) ở vùng đất khắc nghiệt Mông Cổ và phía Bắc Trung Quốc được những nghệ nhân cũng là những người chăn dê lão luyện thu thập.
Vào thời điểm thời tiết ôn hòa, gió yên tĩnh nhất ở vùng này, khi Capra Hircus được trên 6 tháng, dưới 12 tháng tuổi (đã thay đi lớp lông đầu một cách tự nhiên), những người thợ sẽ nhẹ nhàng chải lông của chúng để tách lớp lông tơ phía dưới của dê non ra khỏi lớp lông trưởng thành và đem về dệt thành sợi.
Đường kính 13,5 micron, baby cashmere có độ nhẹ, mềm vượt xa so với các loại cashmere khác - vốn đã rất ưu việt - chỉ khoảng 15 micron.
Từ 80 gram lông tơ mịn của một con dê non người ta chỉ lấy được 30 gram sợi baby cashmere
Rất ít - hiếm nhưng bù lại baby cashmere mang đến sự mềm mại dễ chịu, thoải mái bậc nhất, cực kỳ có lợi cho làn da của con người.
Baby cashmere do Loro Piana - nhà sản xuất vải hàng đầu sáng tạo ra
Sợi cervalt
Cervalt được sản xuất từ lông của hươu đỏ New Zealand (một loài động vật sống ở vùng lạnh nhất thế giới - Nam cực). Mềm như len cashmere nhưng ở mỗi con hươu đỏ người ta chỉ thu hoạch được 20 gram mỗi năm.
Chính vì vậy mà cervalt có giá đắt đỏ đến chóng mặt. Tuy nhiên, khi được dệt để làm nguyên liệu may quần áo dù ở độ mỏng, mềm, mịn nhất định nó vẫn có một khả năng giữ ấm tuyệt đối cho con người trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất.
Được sử dụng chủ yếu bởi các thợ may người Ý khéo léo chuyên nghiệp nhất thế giới, cervelt là một vật liệu rất hiếm khi được sử dụng trong quần áo mà chủ yếu là ở một số món phụ trang như khăn, tất...
Các loại vải đắt tiền được sản xuất từ các nguyên liệu thô hiếm nhất, tốt nhất trên thế giới nên chúng trở nên đặc biệt hơn nhiều so với các loại vải thông thường
Ở mức giới hạn nhất có thể, theo các quy định, quy trình ngặt nghèo từ những nhà quản lý, các loại vải này vẫn được duy trì sản xuất bởi chúng chính là kết quả tinh hoa của con người và là một phần của nghệ thuật, di sản thời trang.
Theo: BBC Travel, Loro Piana, Luxatic